NHỮNG MÙA XUÂN KỶ NIỆM
Đó là những mùa Xuân ở trại tỵ nạn .
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew,
Thailand.
Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng
tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi
chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai
lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật
dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư”
mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ!).
Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến
thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”.
Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật
và rôm rả:
- Mấy em ở vùng nào?
- Dạ, gần chợ Xóm Mới ạ! Còn các anh?
- Mấy anh thì ở khu chợ Gò Vấp, kéo dài trên đường Lê Quang
Định.
Ôi, nếu còn ở Việt Nam, thì Xóm Mới và khu Lê Quang Định
cách xa nhau, như kẻ đầu sông người cuối sông, có khi cả đời cũng chẳng gặp
nhau, nhưng vì nơi đây trên xứ người, lại mang thân phận tỵ nạn, nên bỗng dưng
“tình mến thương” dạt dào. Nhìn mặt mũi chúng tôi còn “ngơ ngác nai vàng” và bộ
dạng xốc xếch như mới chui ra từ vùng kinh tế mới, nên các anh động lòng trắc
ẩn, nổi máu “Lục Vân Tiên”:
-Thôi, hãy cứ vui hưởng đời tỵ nạn trước đã! Buổi chiều
giao thừa mời các em đến nhà đón Tết, có món chè đậu xanh và bánh chiên.
Chúng tôi sung sướng nhận lời, ít ra cũng có “độ” như mọi
người xung quanh. Vài ngày sau, tôi gặp lại Thầy giáo xóm cũ ở Việt Nam. Thầy
chẳng dạy tôi ngày nào nhưng là hàng xóm và là bạn đánh cờ tướng với ba tôi.
Thầy mừng rỡ hỏi thăm chuyện chòm xóm và trước khi ra về cũng không quên mời
chúng tôi đến nhà Thầy 8 giờ tối giao thừa ăn chè đậu đỏ và đậu phộng da cá
chiên bơ. Chúng tôi lại sung sướng nhận lời, vì tiệc của mấy anh đồng hương là
5 giờ chiều, nên vẫn còn thời gian để “chạy sô” qua nhà ông Thầy giáo.
Vậy mà vẫn chưa hết, chỉ hai ngày trước Tết, một cô bạn
trong nhóm tôi tình cờ gặp lại bạn tù vượt biên ngày xưa khi chúng tôi đang xếp
hàng chờ lãnh nước. Qua vài câu trao đổi, thấy chúng tôi còn bơ vơ chưa có tiền
tiếp tế, người bạn này cũng mời chúng tôi ăn chè đậu đen và bánh ngọt đêm giao
thừa lúc 10 giờ tối. Lần này thì chúng tôi không còn… sung sướng nữa, đành phải
gật đầu, mà trong lòng đã bắt đầu bội thực... chè. Kể từ ngày đó, chúng tôi
không dám đi lang thang trong trại, vì sợ gặp người quen mời ăn... chè thì làm
sao dám từ chối?!
Sau đêm giao thừa chạy ba “sô” để ăn chè đậu xanh, chè đậu
đỏ, và chè đậu đen, chúng tôi ngán chè đến tận mấy tháng trời. Chẳng lẽ câu “ớn
chè đậu” là do chúng tôi phát minh ra!?
Tôi cũng chẳng ngờ người Việt mình vẫn mang theo những
phong tục tập quán quê hương. Đêm giao thừa, nhiều người vẫn chưng hoa quả,
nhang khói ngay trước cửa nhà như bàn thiên tại Việt Nam. Sáng mồng một, tôi và
mấy cô bạn còn đang ngủ nướng sau một đêm ăn chè liên tục, đã nghe tiếng người
xôn xao đi chúc Tết, nên cũng vội vã trở dậy, sắp xếp lại chỗ ở cho gọn gàng để
xuất hành đầu năm.
Chúng tôi dự tính đi lang thang một vòng trại rồi về nhà ăn
mì gói với thịt hộp, và ngôi Chùa sát bên khu nhà được chúng tôi thăm viếng đầu
tiên. Người ta ra vào tấp nập, khói hương ngào ngạt, chúng tôi được Thầy trụ
trì tươi cười tiếp đón có lẽ vì bộ dạng “nhà nghèo” với bộ quần áo Cao Ủy, khác
với áo quần tươm tất của những người khác. Sau vài câu thăm hỏi, biết rõ chúng
tôi là “ma mới” nhập trại, Thầy đứng lên, rồi bảo:
- Các
con chờ đây, Thầy có chút quà cho mấy đứa.
Chúng tôi liếc mắt nhìn nhau với ánh mắt rạng ngời hy
vọng, chứa chan niềm vui. Tết nhứt chắc Thầy sẽ lì xì chứ còn gì nữa! Ôi, thế
là chúng tôi có thể dẹp mấy gói mì gói để ra chợ ăn hủ tíu, nghĩ tới mà bụng
reo liên hồi vì thèm. Hoặc ít ra Thầy sẽ cho chúng tôi thức ăn, mấy dĩa xôi và
mấy dĩa bánh tét nhưn chuối ngoài bàn thờ kia cũng hấp dẫn vô
cùng. Lát sau Thầy quay trở lại, trao cho chúng tôi một túi ni lông
kha khá ... nặng, tôi bẽn lẽn hỏi Thầy:
- Cái
gì ở trỏng vậy Thầy?
- Là
tem thư, phong bì, giấy, bút... chứ còn gì nữa. Tụi con mới vừa nhập
trại chưa liên lạc được với gia đình mà!?
Chúng tôi cười méo xẹo, lí nhí cám ơn, nhưng hình như Thầy
hiểu được nỗi “khát khao” của chúng tôi nên cười mỉm chi:
- Chút
nữa sau giờ Ngọ, Chùa có đãi cơm chay cho phật tử, các con nhớ ở lại dùng bữa
tân niên với nhà Chùa nghen.
Chúng tôi lại nhìn nhau, vui mừng. Một bữa cơm chay, có thể
không đậm đà bằng tô hủ tíu ngoài chợ, nhưng chắc chắn là ngon hơn mì gói.
Vậy đó, cái Tết đầu tiên tại trại tỵ nạn của tôi thắm đượm
tình người với nhau khi khó khăn bỡ ngỡ .
Ba cái Tết sau đó thì tôi đã trở thành một người tỵ nạn
thực sự với kinh nghiệm Tết đầy mình. Người Việt nổi tiếng cần cù và thông
minh, nhất là trong cái khó ló cái khôn, nên Tết đến cũng tìm ra được vài hương
vị quê mình dù đang lạc loài nơi trại tỵ nạn. Từ đầu tháng Chạp, trời Thailand
cũng se lạnh, nắng hanh vàng và gió Xuân mát rượi vào những buổi sáng. Chẳng
biết ai mách bảo với người Thái, mà lúc này ra chợ đã thấy hàng hóa phong phú
hơn ngày thường: dưa hấu, trái cây, hoa tươi, đậu xanh, nếp, măng, củ hành, dừa
khô làm mứt và các sạp thịt, bò, gà, cá tôm cũng nhiều thêm nên hầu như nhà nào
cũng có nồi thịt kho trứng và hành muối.
Chiều hăm ba đưa Ông Táo, đã nghe người ta bảo nhau đi mua
bánh chưng, bánh tét, tôi cũng đi dạo ngay một vòng làm cuộc “phỏng vấn bỏ
túi”. Ở một điểm nấu bánh tét, kẻ gói bánh, người buộc dây, rồi đặt vào nồi,
chộn rộn tiếng cười nói. Tôi hỏi chị chủ nhà:
- Gạo, thịt, đậu xanh thì mua ở chợ. Còn lá chuối, củi lửa,
nồi bự chị mua ở đâu?
- Cưng ơi, có tiền mua tiên cũng được, chị nhờ người Thái
ra ngoài mua gì chẳng có.
Rồi chị dẫn tôi ra mảnh đất kế bên lô nhà, ở đó mấy thanh
niên đang hì hục đào một lỗ sâu khoảng ba gang tay, đặt mấy cục gạch ống xung
quanh, là nơi để nấu bánh tét đêm nay, khung cảnh tưng bừng, ấm áp, làm vơi đi
nỗi lòng những người con xa quê.
Ngoài món mứt dừa đi đâu cũng thấy các bà các cô ngồi bên
chảo trổ tài khéo, có chị còn làm món hiếm như mứt gừng dẻo thái sợi, mứt tắc,
mứt cà chua, tôi đi một vòng hỏi thăm đều được mời ăn thử cũng đã thấy no bụng.
Sau màn bánh tét và mứt, người ta rủ nhau tìm các cành cây
khô đem về nhà, cắt hoa mai bằng giấy vàng, nhụy đỏ, lưa thưa lá xanh, dán lên
cây, điểm thêm vài tấm thiệp màu mè, là có ngay một cành mai, dù là bằng giấy,
nhưng vẫn “rực rỡ mùa Xuân” như thường.
Hai câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ - Cây nêu, tràng
pháo, bánh chưng xanh”, vậy mà cũng gần đủ trong trại tỵ nạn. Này nhé, nồi
thịt kho trứng, hành muối thì hầu như ai cũng có, bánh chưng bánh tét đã nấu
xong, chỉ việc… mua về. Câu đối thì sao? Xin vào Chùa hay Nhà Thờ, sẽ thấy ngay
hai hàng câu đối đỏ viết theo lối thư pháp mới, bay bướm như rồng bay phượng
múa được đặt uy nghi trang trọng hai bên bàn thờ.
Và các bạn có tin không, đêm giao thừa cũng có pháo. Tuy
không nhiều, nhưng đã có người mua được bên ngoài đem vào trại. Giao thừa năm
ấy, tôi vừa đi lễ nhà thờ về, đã có mấy người bạn làm chung ghé qua, mang theo
một dây pháo chuột làm quà mừng tuổi. Khi đồng hồ chỉ 12 giờ đêm, chúng tôi
châm ngòi đốt pháo, rồi lác đác nghe vài tiếng pháo vọng lại, xen lẫn tiếng
đập, gõ nồi niêu xoong chảo thay cho tiếng pháo, rồi tiếng cười nói, chúc tụng
nhau giữa những bữa liên hoan đón phút giao mùa làm cho đêm Xuân trên xứ người
bớt nỗi quạnh hiu.
Mỗi sáng mồng một, chúng tôi luôn có chương trình “xuất
hành đầu năm”, đi chúc Tết những người thân quen, bạn làm chung, lũ học trò
nhỏ. Đến đâu cũng được mời ăn uống, dù chỉ là miếng bánh, ly trà, nhưng những
câu chuyện luôn rôm rả, đầy lạc quan cho một ngày không xa trên quê hương thứ
hai.
Khắp nơi trong trại, thiên hạ đi qua lại cũng đủ vui. Chùa
và Nhà Thờ là hai nơi nhộn nhịp nhất, ngoài các buổi lễ tôn giáo, còn có đầy đủ
các phong tục ngày Tết như lắc xăm bên Chùa và bên khuôn viên Nhà Thờ có các
gian hàng vui chơi ngày Tết do đội Thiếu Nhi Thánh Thể phụ trách.
Khi trời xẩm tối, các khu nhà trong trại, dưới ánh đèn dầu
hoặc ánh đèn điện xài bình accquy, đây đó là những nhóm người tụ tập ăn uống
mừng Xuân, chơi đánh bài, và bỗng vang lên tiếng đàn guitar thùng bập bùng điệu
bolero da diết, với giọng ca nam trầm ấm, đầy tâm sự:
“Ôi nhớ Xuân nào thuở trời yên vui - Nghe pháo giao thừa
rộn ràng nơi nơi …”, buồn muốn khóc.
Nói đến khóc, tôi cũng phải nhắc đến những giọt nước mắt
của những đứa con xa quê mẹ trong những ngày Tết. Ngay trong nhóm chúng tôi,
một cô bạn mới sáng mồng một của Tết đầu tiên đã ngồi khóc sụt sùi nức nở, đòi
về Việt Nam ăn Tết với… Má! (cái này thì ai chiều cho nổi?). Các bà các cô ở
gần sợ xui vội chạy qua dỗ dành, vừa năn nỉ vừa răn đe mới xong. Khi đi chúc
Tết người này người kia, đôi khi thấy ai đó cặp mắt đỏ hoe, sưng vù, khỏi cần
hỏi cũng biết đêm qua khóc vì nhớ pháo giao thừa, nhớ gia đình thân thương.
Rồi thì ba ngày Tết cũng trôi qua, không đầy đủ hương sắc
như ở quê nhà, nhưng đó là những cái Tết “đặc biệt” trong lòng mỗi người Việt
đã từng sống qua đời trại tỵ nạn.
………………………………………………………
Cuộc sống mới trên quê hương thứ hai, có đôi lần tôi nằm mơ
thấy được trở lại trại tỵ nạn một buổi sáng mùa Xuân, đang theo dòng người rộn
ràng đi chợ sắm Tết. Có một người đứng chờ tôi bên cây me già nơi ven đường,
trước sân trường học ESL. Người ấy đã ngại ngùng, bối rối trao tặng tôi mấy đóa
hồng đàm tiếu còn đẫm những hạt sương long lanh. Ôi, Xuân của đất trời đẹp
xinh, và Xuân trong lòng tôi cũng lâng lâng, quá đỗi ngọt ngào như đôi mắt của
người trao hoa.
Những mùa xuân đời vẫn đến rồi đi, nhưng những mùa xuân êm
ái như xuân tỵ nạn Thailand của tôi (và của các bạn, ở một trại tỵ nạn nào đó),
dù không quay trở lại, cũng sẽ sống mãi trong ký ức của chúng ta khi mỗi độ
Xuân về.
Edmonton, Xuân Ất Tỵ 2025
KIM LOAN
No comments:
Post a Comment