Hoàng Thị Như Huy
Không một ai hiểu được lý lịch đời cô, ngoại trừ cha Văn.
Những bí ẩn đó được cha gói kín trong một túi
hồ sơ về một số phận được nuôi dưỡng tại Viện mồ côi. Một khuôn mặt trái xoan
khả ái với đôi mắt to đen; Một đôi môi mọng thắm với nụ cười hiền; Một suối tóc
mây mượt mà…vậy mà sao kẻ làm cha mẹ nào nỡ chối từ để cô trở thành kẻ không
thừa nhận trên cuộc đời này?
An Nhi nhập cuộc với viện mồ côi khi vừa ba
ngày tuổi. Trong một sớm mai, những người đi nhà thờ cầu kinh sớm đã nghe tiếng
khóc của trẻ sơ sinh nơi bậc thềm. Không ai trong số họ có đủ khả năng để nuôi
bé gái, nên em đã được chuyển về Viện mồ côi của cha Văn. Chính cha đặt tên cho
em với ước mong cô bé có một đời sống an lành hạnh phúc.
Làm sao ta có thể nhớ lại được trong ký ức về
kỷ niệm của những tháng ngày khi mình vừa tròn ba ngày tuổi?
An Nhi cũng thế! Em chỉ biết mình đã lớn lên
trong sự chăm sóc nuôi dạy của các xơ, bằng lòng với cuộc sống nơi Cô nhi viện.
Bởi quanh em tất cả trẻ nhỏ đều cùng số phận..
Bé An Nhi càng lớn càng xinh đẹp. Nét đẹp ấy
đã làm cho em sáng ngời giữa đám đông. Nhưng điều làm cho các xơ yêu thương bé
là chính tính tình dịu hiền và chịu thương chịu khó. Ở tuổi lên năm, An Nhi đã
biết giúp xơ chăm sóc các em nhỏ khác như ru nôi, chạy đi lấy những vật dụng
lặt vặt…và em đã thể hiện rất nhiều năng khiếu như vẽ, hát…lại học rất giỏi.
Các xơ đã đem hết tấm lòng nuôi dạy An Nhi, để giúp cô trở thành một thiếu nữ
tài hoa, nhân hậu.
***
Hôm nay An Nhi đón chào sinh nhật thứ mười tám
của đời mình. Nhìn lại quá khứ gồm cả một chuỗi ngày phẳng lặng: đi học tại
trường dòng, hát thánh ca tại nhà thờ, phụ tá các xơ chăm sóc các em nhỏ, ăn
những bát cơm, mặc những tấm áo của những tấm lòng từ tâm…Nhìn về tương lại, cô
chưa hình dung được nó sẽ ra sao? Nhưng đêm qua khi cha Văn tuyên bố cô sẽ được
chọn sang Paris tham gia sinh hoạt chương trình văn nghệ”Vì trẻ mồ côi”
do nhà thờ Đức Bà Paris tổ chức, lòng cô lại dấy lên những cảm xúc lạ. Cô chưa
hình dung Paris sẽ đón cô như thế nào khi cô chỉ là một cô gái mồ côi nghèo
khổ? Cái đẹp của mùa thu Paris ra sao? Cô có thực hiện thành công những điều
cha Văn mong đợi? Lòng cô nôn nao và bồi hồi trong giây phút chuẩn bị hành
trang cho chuyến ra đi này.
***
Chuyến bay đã đưa cô vượt trùng dương sang đất
Pháp. Từ khung cửa máy bay, cô nhìn thấy muôn ngàn ánh sáng của Paris trong bầu
trời đêm. Cô đã bàng hoàng đến phát khóc trước những vẻ đẹp mà không một họa sĩ
tài danh nào phác thảo được.
Khi máy bay hạ cánh, Paris đón cô trong cái
lạnh của mùa thu ôn đới. Bầu trời sân bay Charles de Gaule trong buổi bình
minh, ánh sáng trong vắt. Những hàng cây in trên nền trời đủ sắc màu của lá,
những sắc màu mà trước đây cô chỉ thấy trong tranh. Những chiếc lá mùa thu đang
chuyển màu dần để biến thành chiếc lá chết, rơi xuống nằm trên nền đất lạnh…
Giữa khung trời rực rỡ ấy, cô như một con bé lọ lem, thật lạc lõng quê mùa và
co ro trong giá rét chưa quen.
Một thành viên của ban tổ chức đón cô tại phi
trường với sự thân tình làm cô vơi bớt nỗi ngỡ ngàng. Anh đến bên cô, tự giới
thiệu bằng tiếng Việt mình là học trò cũ của cha Văn ngày học ở Sài gòn. Cha
Văn đã gửi gắm anh chăm sóc cô trong những ngày cô làm việc tại Pháp. Giọng nói
ấm của anh đã gây ấn tượng ban đầu. Anh choàng thêm chiếc áo khoác của anh lên
đôi vai gầy đang run rẩy của cô rồi đưa nhanh cô ra xe. Trong xe, hơi ấm của lò
sưởi đã làm cô dần bớt lạnh.
Cô ngồi lặng im quan sát cảnh sắc hai bên
đường. Tất cả đều khác hẳn Sài gòn mà cô đã gắn bó bao năm qua. Những hàng cây
ven đường, những ngôi nhà trên triền đồi…điểm nét chấm phá cho bức tranh cảnh
sắc thêm đẹp như mơ. Cô mở lớn đôi mắt vốn tròn xoe, cố thu hết khung trời đất
Pháp, để mai đây khi chia tay, cô còn lưu giữ những bóng hình để nhớ thương.
Điểm họ đến là nhà thờ Đức Bà nằm ngay trung
tâm thành phố Paris lộng lẫy với đủ sắc màu, âm thanh…của một phố phường sôi
động bậc nhất địa cầu. Khi xe vừa dừng, bầy bồ câu vốn dĩ rất dạn, sà xuống
chào đón cô. Quên mất mình là khách lạ, cô chạy ra dang tay ôm mấy chú chim vào
lòng.
Người đàn ông có mái tóc dày đen, nét mặt đẹp.
Cái đẹp lạ lùng kiêu sa của những bức tượng cổ Hy lạp. Anh bước đến bên cô,
đứng yên lặng ngắm cô một lúc rồi dẫn cô đến vị trí cây số 0 nằm ngay trước nền
sân nhà thờ. Anh bảo cô đặt chân vào, giải thích cho cô ý nghĩa của biểu tượng
này: ” Tất cả vị trí trên đất Pháp, khoảng cách đều được tính từ vị trí
cây số 0 mà em đang đứng. Đã đến Paris, phải đặt được dấu chân mình lên đó. Nào
em hãy đặt chân vào!”
An Nhi tìm thấy một cảm giác ấm áp khi nghe
lời anh nói. Nhưng cô chưa bao giờ dám có ý nghĩ mình sẽ yêu. Bởi khoảng cách
giai cấp giữa anh và cô quá lớn, bởi anh nhiều tuổi hơn cô và nhất là anh và cô
chỉ là hai kẻ xa lạ trong đời này. Việc gặp gỡ hôm nay chỉ là một nghĩa vụ ân
tình với cha Văn. Cô đến bên anh hôm nay cũng chỉ một lần thôi rồi mai đây chắc
chắn sẽ chia cách mãi mãi…
Những ngày kế tiếp An Nhi lao vào công việc
tập dợt. Người đàn ông Việt ấy không thấy đến. Có thể anh đang bận bịu những
công việc khác của mình. Có rất nhiều trẻ mồ côi được mời đến từ nhiều đất nước
khác nhau tập trung ở đây, giúp cô như tìm lại cảm giác sống ở quê nhà. Nói
chuyện với nhau tiếng được tiếng mất nhưng thật vui. Có nhiều bạn hoàn toàn nói
với nhau bằng ”body language” nhưng đã hiểu nhau vô cùng.
Một chiều vài ngày trước hôm khai mạc, anh lại
xuất hiện. Khi nhìn thấy lại nét mặt anh, lòng An Nhi dấy lên một cảm giác lạ.
Nhưng cô tự chế ngự cảm xúc, để được nói chuyện thật bình thường.
Anh xin phép đưa cô đi thăm Paris. Bóng dáng
dòng sông Seine, Khải hoàn Môn, Tháp Eiffel.. . Rồi những con đường, những hàng
cây… đã được thu trong mắt cô, khi xe anh đưa cô đi ngang qua. Nhưng cô không
thấy gì cả ngoài nụ cười, ánh mắt và giọng nói của anh.
Nơi dừng chân để nghỉ là vườn Luxembourg. Anh
đỗ xe ở bãi, cầm tay dắt cô vào. Lần đầu tiên trong đời con gái, tay cô chạm
tay một người khác phái, cô run người lên và tim cô xao xuyến. Nhưng anh thật
tự nhiên. Có thể do anh đã quen sống theo phong cách tây chăng?
Vượt qua khu vườn với những cây cổ thụ nhiều
năm tuổi, anh đưa cô đi sâu vào bên trong. Trước mắt cô hiện ra một hồ nước
trong xanh yên ả, được bao quanh bởi thảm cỏ xanh rì. Chung quanh hồ là những
chiếc ghế đá… Mà trên ấy những đôi tình nhân đang lặng lẽ ngồi bên nhau. Xa xa
ngoài kia phố phường Paris đang sôi động. Nhưng nơi đây thật diệu kỳ. Ngôn ngữ
của yêu đương là.. im lặng.
Anh tìm một chiếc ghế trống, ngồi bên cô, thì
thầm kể cho cô nghe những câu chuyện tình yêu trong công viên lãng mạn này.
Thời gian như ngưng đọng…nhưng rồi cũng phải đến lúc trở về. Đêm ấy, An Nhi
không ngủ trọn đêm.
Rồi anh lại biến mất. An Nhi tự nhủ lòng hãy
quên vì mình chẳng là gì cả. Vả lại anh có tỏ điều gì đâu? Hãy biết phận mình!
Cô vùi trong công việc luyện tập để quên…
Đêm khai mạc, An Nhi đã trình diễn với tất cả
trái tim. Khi kết thúc, giữa tiếng vỗ tay, một người đã lao lên khán đài ôm cô.
Trong cơn xúc động, cô đứng lặng yên trong vòng tay ấy-một lúc-một lúc. Khi
định thần lại, ngẩng nhìn lên, trước mắt cô là anh đang ngập đầy biển trời yêu
thương trong ánh mắt. Anh thì thầm bên tai cô lời tỏ tình đầu tiên giữa tiếng
vỗ tay chưa dứt hẳn. Cô ngẩng lên, để anh đủ nhìn thấy những giọt nước mắt hạnh
phúc đang chảy dài trên má.
Vậy là tình yêu đã đến khi cô vừa tròn mười
tám tuổi. Cô không dám nghĩ đó là sự thật. Cô đón nhận tình yêu với niềm hạnh
phúc vô biên kèm với cả nỗi bất an nơi sâu thẳm đáy lòng. Bởi cô biết thân phận
mình. Nhưng anh đã thật sự yêu cô. Anh quyết định quay về Sài gòn làm việc để
được sống gần cô.
***
Ngày anh trở về, cũng đồng nghĩa là anh phải
vào quân đội do luật Tổng động viên của chế độ miền nam trong những năm 1969.
Với chuyên môn đã học ở pháp, anh trở thành Bác sĩ quân y cho một Tiểu đoàn
Biệt động. Tình yêu và công việc –cả hai thứ đã làm thay đổi cuộc sống của anh.
Anh gầy guộc đi, nhưng rắn rỏi hơn. Với trí tuệ và tấm lòng, anh đủ sức bảo bọc
người con gái anh yêu. Anh quay về tìm người thầy cũ là Cha Văn để bày tỏ tình
yêu của mình dành cho An Nhi để xin cha tác thành cho anh và nàng.
An Nhi bước vào năm học đầu tiên ở Đại học-
khoa Ngoại ngữ của trường Đại học Sư phạm. Cô vẫn tiếp tục làm công việc hàng
ngày ở Viện mồ côi. Lòng cô hạnh phúc hơn xưa bởi cô đã tìm được người đàn ông
cô mơ ước. Cô tin yêu anh và sẵn sàng trao cả cuộc đời mình. Anh đang huấn
luyện tại quân trường. Cứ mỗi tuần về thăm An Nhi, anh đã yêu thương và chăm
sóc cô thật nhiều để bù đắp cho những thiếu thốn của cuộc đời bất hạnh mồ côi.
Nỗi bất an mà cô luôn linh cảm đã là sự thật
khi gia đình anh biết chuyện yêu đương của hai người. Lý Quỳnh Du, tên anh, vốn
sinh trưởng trong một gia đình thuộc hạng thượng lưu bậc nhất của xã hội Sài
gòn. Cha anh là Giáo sư Lý Quân, tên tuổi lừng danh ở làng Đại học. Mẹ là Đào
Mộng Loan, một Trình Dược Viên con chủ doanh nhân dược phẩm giàu có nức tiếng
đất Phương Nam. Anh là con trai trưởng trong gia đình. Ba mẹ nuôi dưỡng anh ăn
học tại Pháp để có tấm bằng bác sĩ y khoa làm vinh dự gia đình. Nên làm sao họ
có thể chấp nhận một cuộc hôn nhân với kẻ đầu đường xó chợ sống nhờ của bố thí
?
Anh đã tha thiết xin mẹ, nhưng bà vẫn lạnh
lùng tuyên bố:
“ Con chỉ được quyền chọn một.”
Nét mặt xinh đẹp của An Nhi, tấm lòng nhân hậu
của cô, sự dịu dàng duyên dáng…mà càng sống bên cô anh càng tìm thấy để yêu hơn
nên anh không thể sống thiếu cô trên đời này. Anh quyết định tự kết hôn. Một
hôn lễ đơn sơ được tổ chức tại nhà thờ, nơi hai mươi năm trước An Nhi bị bỏ rơi
trên bậc thềm. Cha Văn là người làm chứng lời hứa. Lễ cưới không xe hoa, không
tiệc chúc mừng, không lời chúc tụng…nhưng anh và cô rất hạnh phúc.Trong giây
phút thiêng liêng nhất của đời mình, anh quì trước Chúa để thề với cô rằng:”Je
t’aimerai toujours…jusqu’à mon dernier jour” ( anh sẽ yêu em mãi
mãi-yêu em đến ngày cuối cuộc đời anh). Cả hai vợ chồng đã hôn nhau trong nước
mắt.
Sau hôn lễ, đôi vợ chồng về sống trong một căn
phòng nhỏ thuê của một gia đình Du quen biết. Anh quyết định chọn nơi này vì
đây là một địa chỉ an toàn, anh sẽ yên tâm để vợ một mình trong những chuyến
hành quân xa. Họ chỉ được ở bên nhau một vài đêm rồi anh được lệnh chuyển quân
đến một tiền đồn trên Tây nguyên..
Những tháng ngày đầu sau lễ cưới, họ đã sống
tràn trề hạnh phúc. Anh yêu vợ, những ngày về phép chỉ dành tất cả cho việc
chăm sóc cô vợ bé bỏng của mình. Họ cho nhau những lời dịu ngọt, cho nhau những
vuốt ve êm ái. Đêm đêm anh lại giảng cho An Nhi những bài học khó. Khi cô đã
thuộc bài, họ lại ôm nhau đi lang thang trên những con đường có những hàng me
của Sài gòn trước giờ giới nghiêm dưới ánh đèn vàng vọt của đêm khuya, đẹp đến
mê hồn..
Phần An Nhi, cô chăm lo cho chồng từng bữa ăn
giấc ngủ, chia sẻ cùng anh những buồn vui.. Vốn là một cô gái khéo léo tài hoa,
lại được tôi luyện trong nhà trẻ mồ côi, nên nhất nhất mọi việc cô làm, mọi lời
cô nói…đều làm chồng cô thêm yêu vợ.
***
Vào một ngày Quỳnh Du đang đóng quân tại một
cứ điểm ở Đắc tô, An Nhi biết mình đã có thai. Còn niềm vui nào hơn? Cô chỉ
mong đợi chồng về hơn bao giờ hết. Nhưng thật lạ lùng, anh đã về phép nhưng
không về nhà như mọi khi mà lại đến nằm dài ở nhà chỉ huy trưởng đơn vị. Khi
nghe vợ thiếu tá Mạnh báo tin, An Nhi vội tìm đến. Nhưng anh đã đóng cửa phòng,
lạnh lùng không tiếp. An nhi thầm nghĩ chắc anh hờn giận mình điều gì đấy. Cô
về nhà chờ đợi .Nhưng anh đã không trở về mà quay về ngay lại đơn vị.
Cô trăn trở bao đêm về thái độ của chồng.
Nhưng nỗi hân hoan trong lòng muốn báo tin vui đã không làm cô tự ái. Cô quyết
định lên đơn vị thăm Du. Chuyến đi thật vất vả vì anh đang đóng quân tại căn cứ
nóng, đường vận chuyển chỉ bằng máy bay, phải làm đủ mọi thủ tục mới đi được
Chờ ngày có chuyến trực thăng chuyển lương
thực và thuốc cung cấp cho tiền đồn, An Nhi mới có thể đi theo. Đang mang thai,
sức khỏe không ổn nhưng cô vẫn quyết tâm đi. Chuyến bay đã hạ cánh một cách khó
khăn vì thời tiết xấu. Lúc cô rời khỏi máy bay, căn cứ lại bị pháo kích, An Nhi
được một người lính kéo chạy như bay về lô cốt cứu thương nơi anh đang cứu chữa
cho thương binh.
Anh đứng đó. Lạnh lùng chăm sóc một thương
binh vừa trúng đạn, không hỏi cô lấy một lời. An Nhi tủi thân khóc òa. Tiếng
khóc của vợ vẫn không lay chuyển, anh tiếp tục quay sang chăm sóc người thương
binh bên cạnh đang rên rĩ. Giữa lúc căn cứ lại tiếp tục bị pháo kích nên An Nhi
được lệnh phải ra ngay máy bay để trở về. Cô không có cơ hội báo tin vui cho
chồng.
Hai ngày sau, Báo Sài gòn đưa tin căn cứ G đã
bị phía Quân đội Cộng sản chiếm đóng. Tất cả đã bị san bằng trong mấy ngày giao
chiến. Những người lính trên ấy nếu không chết thì cũng đã bị bắt làm tù binh,
bị chuyển đi đâu đó không tin tức. Tin xấu đến như sét đánh ngang tai, An Nhi
chết đi sống lại. Cô quá thương chồng, thương bản thân mình và thương chính đứa
con trong bụng.
“ Vậy là hết tất cả. Anh còn sống hay
đã chết? Anh còn sống thì cuộc sống tù binh ra sao? Nếu anh đã chết thì trước
khi chết anh còn giận em không? Mà em đã làm điều gì anh giận? Thân xác anh giờ
nơi đâu? Nếu anh đang bị thương thì có ai chăm sóc vết thương cho anh?”
Lòng An Nhi ngổn ngang trăm ngàn câu hỏi.
Chẳng có câu hỏi nào được trả lời. Tất cả chỉ là sự vô âm tín. Tất cả chỉ là
nỗi đau cùng cực!
Hạnh phúc đến với An Nhi thật ngắn ngủi. Giờ
cuộc sống lại quay về với những bất hạnh cũ. An Nhi là kẻ mồ côi, sống thiếu
thốn đã quen. Nhưng khi nghĩ đến đứa con sinh ra, phải tiếp tục cuộc sống bất
hạnh mà cô từng chịu đựng thì lòng An Nhi thật tan nát. Sau nhiều đêm vật vã,
nhiều đêm lang thang bên bờ sông Sài gòn với mấy lần định nhảy xuống dòng
sông.. cô quyết định phải sống, phải sinh con và phải yêu thương con thật nhiều
vì trong trái tim cô tình yêu cho anh mãnh liệt biết bao. Mà muốn thế phải dũng
cảm đương đầu với những khó khăn phía trước mà vươn lên.
Từ đó An Nhi gạt nước mắt, thôi không sầu não,
sống một cuộc sống âm thầm nhưng đầy bản lĩnh.
Ngày ngày cô vẫn tiếp tục lên giảng đường chăm
chỉ học tập để mong sau có một địa vị xã hội
Đêm đêm cô đi làm thâu ngân cho một NightClub. Một đêm, hai đêm… cho đến ngày cô sinh nở.
Đêm đêm cô đi làm thâu ngân cho một NightClub. Một đêm, hai đêm… cho đến ngày cô sinh nở.
Gia đình Du không quan tâm đến số phận của hai
mẹ con cô. Ngày cô sinh em bé, chính em gái Quỳnh Du đang là sinh viên nội trú
có mặt bên giường sinh. Tiếng kêu gào đau xé da thịt của An Nhi trong cơn sinh
đẻ không làm động lòng cô gái kiêu sa ấy. Họ xem cô và cả con cô như kẻ xa lạ.
Thật đau lòng! Nhưng cơn đau rồi cũng qua, khi nghe tiếng con khóc, nhìn mặt cô
con gái nhỏ với đôi mắt của bố.. lòng An Nhi dấy lên tình yêu vô bờ bến.
Mẹ con cô vẫn tiếp tục sống nơi căn phòng cũ.
Cô vẫn còn một hy vọng mong manh nếu anh còn sống sẽ trở về chốn ấy tìm cô.
Những tháng ngày này trôi qua thật chậm. Cuộc sống luôn đưa đến cho cô buồn
nhiều vui ít. Một người đàn bà trẻ đẹp sống đơn độc trong xã hội đang chiến
tranh loạn lạc thì quả thật không dễ dàng gì! Hơn nữa An Nhi lại là kẻ mồ côi,
không người thân thuộc, không tài sản dính túi. Những khi con đau ốm đã phải
khó khăn lăn lộn vất vả kiếm sống. Cuộc sống của Sài gòn trong những năm tháng
chiến tranh này có biết bao điều cám dỗ. Nếu không vì tình yêu Du trong lòng
thì làm sao cô có thể giữ được sự trong trắng trong tâm hồn lẫn thể xác? Nơi An
Nhi làm việc đêm đêm có bao kẻ giàu sang đến tìm vui trong hoan lạc, ném tiền
qua khung cửa cho thỏa bởi liệu ngày mai họ có còn tiếp tục sống hay chăng? Nơi
két thu ngân, bóng hình một cô gái đẹp luôn gợi sự khát khao..
Nhưng cô đã khước từ tất cả. Khi biết cô là một phụ nữ trí thức, có tư cách đúng đắn, chỉ vì cuộc sống mà phải đi làm thêm, nhiều người đã chuyển ý tưởng đen tối thành lòng kính mến. Và trong số ấy đã có không ít người ngỏ ý giúp cô lập lại cuộc đời.
Nhưng cô đã khước từ tất cả. Khi biết cô là một phụ nữ trí thức, có tư cách đúng đắn, chỉ vì cuộc sống mà phải đi làm thêm, nhiều người đã chuyển ý tưởng đen tối thành lòng kính mến. Và trong số ấy đã có không ít người ngỏ ý giúp cô lập lại cuộc đời.
Bé Quỳnh, cô con gái bé bỏng của cô và anh, do
khi mẹ mang thai gặp nhiều đau đớn, lại ăn uống không đủ chất nên thai nhi bị
ảnh hưởng, khiến bé đau ốm luôn. Mỗi khi bế con đi khám bệnh, cô thật đau lòng
vì cả gia đình Du đại đa số đều làm việc ngành y mà chẳng ai đoái hoài giọt máu
của anh. Khi con bắt đầu biết nói, tiếng đầu tiên con gọi ba ba càng
làm cho An Nhi thêm chua xót.
Việc học của An Nhi dù cuộc sống khó khăn, vẫn
tiến triển tốt. Cô là sinh viên xuất sắc của khoa. Mỗi sáng bế con đi gửi ký nhi
viện, cô lao vào học tập. Ý nghĩ mình phải có bằng cấp để con gái khỏi đi lại
con đường mòn mình đã đi thôi thúc cô vươn lên. Qua những tác phẩm văn học nước
ngoài học trong chương trình, An Nhi hiểu rằng trên cuộc đời này không chỉ
riêng cô mà còn có nhiều thân phận bất hạnh khác.Vậy đừng buồn nữa. Hãy lau
nước mắt mà làm những việc có ích cho đời. “Nếu anh còn sống, khi trở về anh
sẽ thấy em xứng đáng với tình yêu của anh. Nếu anh đã chết thì em cũng xứng
đáng làm mẹ con gái anh.” Đêm đêm cô thầm thì qua trang nhật ký, nói với
anh biết bao điều. Thành thử cô không cảm thấy mất anh. Anh vẫn bên cô mỗi đêm
về. Tình yêu cuộc sống dần hồi sinh trong tim cô.
***
Ba năm đã trôi qua. Cô sắp thi tốt nghiệp để
thành cô giáo trẻ. Trong lúc bận rộn với luận văn tốt nghiệp, bé Quỳnh lại ốm
nặng, phải phẫu thuật mới hy vọng.Cô lại thao thức bao đêm bên con.
Cùng lúc ấy tin vui về cuộc trao trả tù binh
mà trong danh sách có tên anh. Anh còn sống và sẽ về. Báo, Đài.. đưa tin làm An
Nhi khóc òa như lần cô đã khóc vì tưởng đã mất anh.
Cuộc trao đổi tù binh diễn ra bên bờ sông
Thạch Hãn tỉnh Quảng Trị. Cô muốn bế con chạy ra đón anh trở về. Nhưng oái ăm
thay chính ngày ấy bé Quỳnh phải lên bàn mổ. Cô đã ở lại bệnh viện cùng con
giành giựt với tử thần.
Anh đã trở về, được đưa vào Quân Y viện kiểm
tra sức khỏe và an dưỡng sau một thời gian dài sống thiếu thốn trong cảnh tù
binh. Không biết anh đã nghĩ gì khi không thấy bóng cô ra bờ sông đón anh về?
Hai hôm sau khi tình hình sức khỏe bé Quỳnh đã
ổn, cha Văn cho người đến chăm sóc thay và thúc dục cô đi thăm chồng.
An Nhi soi nhanh bóng mình trong gương. Sợ sự
mệt mỏi hốc hác do thức nhiều đêm sẽ làm cô không còn như xưa. Phải tô lại chút
phấn son để cô vẫn còn đẹp như ngày đầu anh gặp. Cô đi vội qua hàng hoa mua cho
chồng một bó Hồng thật đẹp rồi tất tả đi vào viện.
Bước chân càng đến gần phòng Du đang dưỡng
bệnh, tim cô càng đập rộn rã. ”Anh ra sao? Anh còn giận em không? Anh có ôm
hôn em thật nhiều như em mong đợi không?”
Khi bước chân An Nhi vừa đến cửa, Quỳnh Du
đang nằm trên giường bệnh, khuôn mặt hướng nhìn ra… Ánh mắt anh vừa chạm mắt cô
là anh quay phắt vào tường. Một nỗi xót xa dâng trào trong lòng. Nhưng cô vẫn
tự an ủi chắc do anh mệt và buồn nên thế. Cô bước vào phòng thật nhẹ, đến bên
anh và gọi nhỏ:” Anh!”.Nhưng Du vẫn bất động. Rồi đột ngột có tiếng
chân đi nhanh vào, rồi tiếng hét kinh khủng của mẹ Du: "Tôi mời chị ra
ngay. Tôi mời chị ra ngay.”
An Nhi cuống quít đặt bó hoa lên chiếc bàn nhỏ
đầu giường rồi tủi hỗ đi ra. Khi bước xuống sân bệnh viện, do đi không nhìn,
chân cô dẩm phải một bó hoa vừa được ném từ lầu cao xuống. Cô ngẩng nhìn lên,
nơi khung cửa, chính Du đang trong tư thế nhoài người. Vậy là hết.
Không phải hôm nay mà đã từ những ngày xưa..
Cô âm thầm trở về bệnh viện, ôm con vào lòng
và ngồi âm thầm suốt đêm.
***
Tình trạng bé Quỳnh tốt dần. Bé xuất viện. An
Nhi quay lại với bản luận văn viết dang dở. Nỗi đau quá lớn trong tâm làm chất
liệu giúp cô viết hay hơn. Ngày bảo vệ chính cô cũng không ngờ mình đạt kết quả
tuyệt vời đến thế. Cô đã tốt nghiệp thủ khoa xuất sắc và được học bổng du học
tiếp chương trình sau đại học tại Pháp. Quả trong họa phải có phúc thì con
người ta mới đủ nghị lực để tồn tại. Cô sung sướng trước thành công bằng những
giọt nước mắt hạnh phúc. Lòng cô còn một nỗi phân vân: cô đi du học thì để bé
Quỳnh cho ai? Con không có bố, giờ lại thêm không có mẹ liệu bé có chịu nổi
không? Nhưng cha Văn đã động viên cô bằng cách đón bé Quỳnh về viện mồ côi,
chăm sóc bé như ngày xưa viện đã chăm sóc cô. Cô sẽ học lấy bằng master mới
được quay về.
Quỳnh Du xuất viện. Anh trở về sống với gia
đình như những ngày chưa có An Nhi. Mẹ anh đã chuẩn bị sẵn cho anh một cuộc hôn
nhân môn cân xứng. Đã một lần cãi mẹ, nên nay anh thuận lòng mà chẳng hề biết
mình có yêu hay không.
Báo chí thừa bút mực lại rôm rả đưa tin về
cuộc hôn nhân sắp diễn ra. Tin đến, An Nhi chỉ biết đón nhận với nỗi xót xa.
Anh làm mọi thủ tục của chàng rể trước ngày
cưới. Đưa cô dâu đi mua sắm. Nơi quầy nữ trang, khi cô dâu chọn mua chiếc nhẫn
đính hạt kim cương trị giá hơn cả ngôi biệt thự, anh có chạnh lòng nhớ đến An
Nhi. Ngày ấy, anh cưới An Nhi mà chẳng có gì. Nhưng chỉ thoáng qua một lúc vì
anh đã xua đi. Anh hận thù người đàn bà ấy vì cô ta là kẻ phản bội chồng.
Anh nhắm mắt, cố xua đi hình ảnh đau lòng ô
nhục mà anh đã bắt gặp ngay tại căn phòng hạnh phúc của anh trong một lần về
phép. Dẫu biết anh phải luôn xa nhà là một thiệt thòi lớn cho người vợ trẻ.
Nhưng trong thời chiến thì điều này đã có bao người khác phải chấp nhận. Tình
yêu của anh không đủ bù đắp hay sao? Những lời mẹ đay nghiến đeo đẳng bên tai:
“Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu”
Liu điu lại nở ra dòng liu điu”
Chắc chắn An Nhi có dòng máu di truyền của
những kẻ hạ lưu nên nay cô thừa hưởng điều bất chính ấy. Người đàn ông với thân
thể trần truồng nằm bên cô trên chiếc giường chính tay anh đi mua cho hai vợ
chồng là ai? Sao cô nỡ cho anh điều khủng khiếp ấy? Anh đã đau đớn biết bao!
Anh đã yêu cô với tất cả tấm lòng và đã chấp nhận từ bỏ tất cả để đến bên cô.
Sao cô chóng phụ tình anh đến thế?
Thế mà tất cả đã hết. Hết thật rồi!
Đêm trước ngày rước dâu, sau ba ngày liên tục
đón khách đến chúc mừng tiệc vu qui ở nhà gái, anh quay về, mệt nhoài. Anh thèm
đi bách bộ để hít thở không khí ban đêm. Bước chân anh vô tình đi về hướng ngôi
nhà cũ. Đêm khuya lắm. Mọi nhà đã tắt đèn. Anh bước vào cổng, đến đứng yên bên
ngoài khung cửa sổ. Anh đứng thật lâu. Đêm lặng yên. Anh nghe cả tiếng sương
rơi trên cành lá.
Bên trong. Cũng trong bóng đêm, An Nhi đang
thao thức. Cô không ngủ được. Cô đang nghĩ về anh, đến những hạnh phúc anh đã
cho cô. Hồn cô rời cõi thực, mơ màng bay về nơi khung trời xa xăm.. Nơi
ấy, có chiếc lá xanh đang thì thầm, thì thầm lời tỏ tình đầu tiên…
Giá như lúc ấy anh gõ cửa hoặc giá lúc ấy An
Nhi mở cửa đi ra thì có thể số phận họ đã đổi khác. Nhưng điều ấy đã không diễn
ra vì anh chỉ đứng lặng yên một lúc trong bóng đêm rồi lặng lẽ quay về.
Còn An Nhi do bé Quỳnh cựa quậy mê sảng, cô đã
quay về cõi thực, choàng ôm con vào lòng rồi ngủ thiếp đi.
Trên đường khi anh trở về, tiếng còi giới
nghiêm đã hú vang vọng cả một đoạn đường dài. Anh bị tốp tuần tra bắt giữ.
Nhưng khi nghe anh khai lý lịch, toán quân cảnh trọng vọng mời anh lên xe đưa
về tận nhà.
Hôm sau cả Sài gòn ngẩn ngơ trước đoàn xe rước
dâu dài như chưa từng có- đám cưới con gái rượu của VIP ( nhân vật quan trọng).
Nơi một góc tu viện, cha Văn ngồi câm lặng suy
tưởng về chính mình. Cha đã tự hỏi liệu mình đã đúng hay sai trong phương pháp
giáo dục để đào tạo nên một con người?
***
An Nhi lên đường đi Pháp. Lần trở lại này cô
không còn là cô bé lọ lem năm xưa. Cô đã lớn khôn hơn. Xinh đẹp hơn. Bản lĩnh
hơn. Cô xác định được mục đích sống của mình nên ra sức học tập. Ký túc xá cô ở
gần Vườn Luxembourg. Mỗi tuần cô vào ngồi một mình bên hồ nước. Cô không còn
đau khổ xót xa nhớ Du như trước vì nỗi nhớ con đã chiếm ngập lòng cô. Nhưng cô
vẫn mong ước mình được sống lại giây phút năm nào, để được ngồi bên anh, lặng
im nghe anh nói. Sao anh đáng yêu thế mà lại nhẫn tâm đến thế? Em đã
làm điều gì nên tội mà anh không khoan dung?Chắc chắn anh không bỏ rơi em vì em
nghèo khổ vì khi ta gặp nhau anh đã thừa hiểu thân phận mồ côi của em rồi? Sao
anh không cho em một cơ hội để em được nói rằng em đã sinh con cho anh? Có bao
giờ anh hiểu được em đã vất vả như thế nào để nuôi con chúng mình? Anh có biết
em đã chối từ bao cuộc tình vì em chỉ duy nhất yêu một mình anh mà thôi?
Và thời gian không đợi ai..lạnh lùng
trôi..lạnh lùng trôi…
Những chiếc lá chết trong vườn Luxembourg cứ
tính đủ tháng ngày, rơi xuống bờ vai cô.
***
Sau đêm tân hôn Du phát hiện ra vợ mình là một
con người quá điệu nghệ trong ái ân. Nhưng anh không buồn. Bởi anh có một nỗi
buồn sâu nặng hơn ở đáy lòng. Anh chỉ có duy nhất một mối tình. Nhưng tình yêu
ấy đã chết. Anh lấy vợ có phải vì yêu vợ đâu? Nên cô ấy có thế nào anh chẳng
bận tâm.
Theo sự bố trí của gia đình anh đưa vợ sang
sống ở Mỹ. Anh được mời dạy Đại học Y ở Cali. Vợ anh, sau một thời gian chung
sống đã cho anh hiểu bản chất của nàng. Nàng đẹp lộng lẫy một phần nhờ giống
mẹ, một phần nhờ có quá nhiều mỹ viện chăm sóc. Là con gái rượu của đại gia nên
luôn được nuông chiều, nói năng chẳng cần uốn lưỡi, coi tiền của nặng hơn đạo
lý ở đời…
Quả là những gì anh mơ đều không tìm thấy ở
vợ. Cô ấy không thể hàn gắn vết thương lòng trong tim anh.
Hằng đêm, khi anh nghiên cứu đề tài để giảng
dạy, cô ấy luôn gắt gỏng yêu cầu anh tắt điện ngủ vì chói mắt. Anh kiên nhẫn hạ
đèn xuống để chiều vợ. Nhưng vợ anh không vừa lòng, đã vùng dậy nói với anh
những lời mà anh không thể chấp nhận: ”Anh bận tâm làm gì ba cái nghiên cứu
trên mây trên mưa ấy. Của cải cha mẹ tôi cho tôi đủ để anh sống mấy đời người.”
Lòng anh chạnh nhớ người vợ xưa. Giá là An
Nhi, giờ này cô ấy đang xuống bếp nấu cho anh một chén xúp nóng.. Anh lặng lẽ
ngồi ghi nốt bài viết với một nửa tâm hồn bay về quê cũ.
Một ngày tôi lái xe đi dạy nhưng phải trở về
đột xuất do để quên xấp tài liệu.Khi bước chân vừa đến phòng ngủ, tôi nghe
những âm thanh quái đản. Qua khe cửa khép hờ, tôi đã nhìn thấy cảnh cô vợ xinh
đẹp kiêu sa của mình cùng gã tài xế cường tráng mà gia đình vợ đã bố trí sang
sống chung để phục vụ vợ chồng tôi, đang cuồng say trong cơn say xác thịt..
Trái tim tôi nhói đau bởi những mũi kim đâm.
Tôi bàng hoàng nhận ra tôi chưa bao giờ quên được em! Tình yêu em phút chốc
sống dậy mãnh liệt. Tôi gào lên, nhờ gió lộng chuyển nhanh về nơi em đang sống:
“ An Nhi ơi! An Nhi ơi!”
***
Chuyến bay đưa anh trở về vừa đáp xuống Tân
Sơn Nhất thì cả phi trường nhốn nháo bàng hoàng nhận tin về một chuyến bay khác
cùng ngày từ Paris về Sài Gòn đã bị nạn. Trong bảng danh sách hành khách, mắt
anh nhòa đi khi đọc dòng chữ: Vũ An Nhi-Viện mồ côi Dòng Mến Thánh
giá-Thủ Đức-Sài Gòn Việt Nam.
Ngày hôm sau, hãng Hàng không Việt Nam tổ chức
lễ truy điệu, anh đứng im lìm trong bộ vét tông đen để tang vợ. Trong đám đông
người tham dự, anh nhìn thấy chị Liên, người chủ cho anh và An Nhi thuê nhà năm
xưa. Chị lao nhanh tới, ôm anh khóc tự thú:
” Em ơi An Nhi là kẻ vô tội. Tất cả những gì
em chứng kiến là do mẹ em và mẹ chồng chị dàn dựng, sai bảo chị lừa cô ấy uống
thuốc mê để tạo cảnh cô ấy ngoại tình khi biết tin Du về phép. Chị đã cam tâm
làm điều bất chính ấy để đổi lấy lệnh thuyên chuyển cho anh Duy chồng chị từ
miền hỏa tuyến về thành phố này. Chị biết rõ sự tình mà không nói được. Cô ấy
chết mà không hiểu được vì sao mình bị bỏ rơi. Chết mà không nói được một lời
là đã sinh bé Quỳnh cho em.”
Trong phút chốc trái tim anh hóa đá.
***
Nhiều năm sau, trong vườn Luxembourg, người ta
thường thấy một người đàn ông Việt nét mặt buồn thiu luôn đến ngồi bên cô con
gái nhỏ. Hai cha con ngồi lặng im như những đôi tình nhân chung quanh. Họ không
nói vì… có còn gì để nói nữa hay không?
***
Và tôi người viết kể câu chuyện này cũng tìm
về vườn Luxembourg sau ba mươi năm ngày chị mất, ngồi nơi chiếc ghế đá năm xưa
chị vẫn đến ngồi, để viết câu chuyện tình buồn của chị. Mong rằng nơi cõi vĩnh
hằng xa xăm nào đó chị lại nở nụ cười cho người đàn ông duy nhất của đời chị
nhìn lại nét mặt yêu kiều của chị, cho lòng anh ấy bớt ngậm ngùi đau đớn.
Còn tôi, câu chuyện buồn của chị đã làm cho
tôi vơi bớt những muộn phiền bởi tôi biết rằng trên đời này đâu phải chỉ duy
nhất mình tôi đau khổ?
Ngoài kia khung trời Paris đang vào xuân. Vườn
cây đang khoác sắc áo xanh mượt mà. Trong vòm lá...tôi nghe ngân vọng tiếng
chim ca.
Vườn Luxembourg- một mùa Xuân
Hoàng Thị Như Huy
No comments:
Post a Comment