Tôi
sinh ra và lớn lên trên dãi đất nghèo miền Trung. Thành ngữ dân gian gọi là nơi
“chó ăn đá, gà ăn sỏi ”, hiện thực hơn người ta thường nói đây là miền“ nắng
cháy da, mưa thúi đất”, báo chí thì dùng biệt danh “Vùng hỏa tuyến”. Trong nhạc
của ca sỹ Duy Khánh- người đồng hương- có câu than thở “Quê hương em nghèo lắm
ai ơi! Mùa Đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”.Đó chính là Quảng Trị.
Ấy
thế mà nào tôi có được coi là dân thị xã. Làng của tôi thuộc một vùng quê nằm
ngoài rìa, dọc theo Quốc lộ I. Làng có cái tên rất hay: Long Hưng nhưng dân
chúng quanh năm chúi đầu trên những thửa ruộng cằn khô, không biết lúc nào mới
được là “Rồng vươn lên” như tên gọi? Làng nghèo đến mức tên người cũng ít khi
thêm được cái chữ lót như một nhà văn từng nhận xét. Làng nổi tiếng vì thổ ngữ
đặc biệt. Hễ chúng tôi thốt ra câu nào là đã nghe nhận xét: “ A, dân Long
Hưng.”
Dân
Long Hưng chỉ có một niềm tự hào là giỏi Toán. Dù nghèo nhưng hầu hết nam sinh của
làng đều thi đậu vào ngôi trường trung học công lập danh giá của thị xã: Trường
Nguyễn Hoàng. Các giáo sư phần đông là người Huế, hàng tuần đi xe taxi ra dạy.
Họ thường khen chúng tôi về sự thông minh. Đặc biệt là trong mục “Toán chạy”;
đây là loại toán hầu như chỉ dành cho học sinh giỏi. Mạ tôi thường lấy gương của
một người làng là Bác sỹ Văn Tần để răn dạy hai anh em chúng tôi cố
gắng học hành.
Mặc
cảm con nhà nghèo khiến tôi ít khi trò chuyện với ai, đặc biệt với các bạn nữ
trong lớp. Mỗi lần tôi nói câu gì, tụi bạn hay trêu“Cóc mở miệng”. Điều đó càng
làm tôi câm lặng hơn. Con trai mười bảy, mười tám thường đỏm dáng. Đi học đã biết
vuốt tóc láng mượt bằng nước lạnh, miệng ngậm điếu thuốc Ruby Queen, viết thư tỏ
tình với bạn gái. Riêng tôi “nhà quê” trong chiếc áo ngã màu cháo lòng, quần
xanh bạc phếch…
Lên
đệ nhị cấp, chúng tôi bắt đầu lo lắng với lệnh tổng động viên vừa ban bố. Phải
cố mà thi đậu. “Rớt Tú tài anh đi trung sĩ ”. Chiến tranh đã bao phủ cả
quê hương. Đêm đêm nghe tiếng đại bác rền vang, máy bay quân sự bay về
phía Gio Linh, Cam Lộ rợp trời, nhà nhà chuẩn bị những cái hầm trú ẩn bằng bao
cát quân đội. Thỉnh thoảng đã có nhà trúng đạn pháo kích của Việt Cộng, tiếng
khóc than vang trời dậy đất.
Tôi
may mắn đậu Tú tài hai không phải vào Thủ Đức “thức đủ năm canh” như các
bạn nam cùng lớp. Nhưng tôi “out” khi cố chen chân vào Đại học sư phạm Huế.
Đành phải ghi danh học MPC ở Đại Học Khoa học. Đi dạy kèm gặp bà chủ ác nghiệt,
tôi lên giảng đường bữa đói bữa no. Ngày về làng xin tiền mua sách, tôi ứa nước
mắt nhìn mạ lần mò chiếc kim băng mở túi áo lôi ra những đồng bạc lẻ. Sau bao
đêm trằn trọc, tôi dặn dò thằng em lớp 11 cố học cho mạ yên tâm rồi quyết định
thi vào khóa 28 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào năm 1971 theo lời khuyên của
anh Hoàng Tấn, K25, người Quảng Trị. Nguyên văn lời anh: “ Tất cả có chính
phủ lo. Ra trường, ngoài bằng tốt nghiệp (Võ) còn có thêm bằng Cử Nhân Khoa Học
Ứng Dụng (Văn) . Học 4 năm với chương trình đại học lại được xem như văn
võ song toàn. Đó cũng là một lựa chọn tốt cho người trai thời loạn muốn
thỏa chí tang bồng…”
Cuối
tháng 12 năm 1971 tôi nhập trường. Người Pháp tôn vinh Đà Lạt là Deuxieme
Paris; có bản nhạc ca ngợi “Ai lên xứ hoa đào”; văn chương hết lời tán
dương những cô gái má đỏ môi hồng. Nhưng qua mùa Tân Khóa Sinh, khi đã khoác
lên mình bộ quân phục kaki vàng với cầu vai alfa đỏ, được ra phố cuối tuần tôi
cũng chẳng biết đi đâu ngoài mấy vòng loanh quanh ở khu Hòa Bình, hay chui vào
cine’ Ngọc Lan hoặc Ngọc Hiệp rồi xuống mấy chục bậc cầu thang leo xe Dodge về
lại trường. Thôi, những lần sau đành ở lại phòng, làm bạn với mấy thằng
cù lần, lôi Anh văn ra học vì thuộc loại “dốt” ngoại ngữ và nhận biệt danh là
nhóm “ Lờ quờ ”. Thằng Thế Hân có biệt danh “Hân gà” vì thấy gái là mặt
đỏ au và lúng túng như gà mắc tóc. Thằng Kim Long, lai Miên, gốc Trà
Vinh, luôn được đại đội phó “ưu ái ” cho đi gác Đài Tử Sĩ nhưng cứ cười
tươi… Cả bọn không bao giờ có vinh dự được gọi tên ra hội quán Huỳnh Kim
Quang gặp người thân chứ đừng nói chi đến chuyện gặp Đào!
Trời
không thương nhà nghèo, Quảng Trị trở thành chiến địa ác liệt vào “mùa hè đỏ lửa”
năm 1972. Mạ tôi và đứa em may mắn vượt qua Đại Lộ Kinh Hoàng vào ở
trại tạm cư Hòa Khánh- Đà Nẵng, hằng tháng ăn gạo trợ cấp.Thôi thế là tôi không
bao giờ còn được trở về căn nhà tranh với bao nhiêu kỷ niệm buồn vui thời thơ ấu.
Làng tôi, Ngã Ba Long Hưng –được nhắc nhiều lần trong cuốn Mùa Hè đỏ
lửa của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam- đã tan nát, điêu tàn! Mặc cảm chồng
chất mặc cảm, tôi co mình trong vỏ ốc, tháng tháng dành dụm chút tiền lương cấp
trung sĩ ít ỏi, gởi về phụ mạ nuôi em.
Tháng
11 năm 72, khóa 27 và 28 trường Võ Bị nhận lệnh đi công tác Chiến tranh chính
trị miền Trung. Tôi được phân công về Huế. Thành phố thơ mộng hiền hòa bên dòng
sông Hương như sôi động hẳn lên bởi hình ảnh hào hùng của các chàng trai cằm gập
vuông góc, đi đứng oai phong. Anh chàng Ngọc cùng đại đội vỗ vai tôi “Gái Huế dễ
thương thật! Mày có bạn nhiều giới thiệu cho tao một em”. Tôi cười méo xệch “Kiếm
đâu ra!”. Ấy thế mà tuần sau đã thấy Ngọc ngồi với một nàng trong quán chè Sầu,
miệng mồm như tép nhảy. Thằng Thanh, tóc hớt ba phân lộ ra mấy cái sẹo to
tổ bố cũng quen một em Đồng Khánh hẳn hoi. Chỉ có tôi lủi thủi ngồi cắt
dán mấy cái khẩu hiệu với thằng Tập. Thằng này đã có người yêu ở Củ Chi và tự hứa tuyệt
đối chung tình.
Thật
sự tuổi thanh niên ai chẳng rung động trước những bóng hồng. Thời học lớp 12,
tim tôi đã từng hồi hộp với một cô bạn cùng lớp. Em có mái tóc xõa ngang vai,
hiền hòa và học giỏi. Nhưng nhà em kín cổng thâm nghiêm và tôi chưa một lần hé
môi. Tôi biết em đang học ĐHSP Huế khoa Vạn Vật nhưng cũng không dám tìm gặp.
Liệu em còn nhớ tôi, thằng cù lần hôm nay đã mang quân phục nhưng vẫn mãi cù lần.
Vậy là trong khi các bạn vi vu cuối tuần với các nàng ở chè Cồn Hến, bánh bèo
Tây Thượng, cà phê Góp Gió… tôi ôm cây đàn guitar bị đứt dây ngồi nghêu ngao “Sao
em không đến chiều nay Thứ Bảy?”. Niên trưởng Hưng, K 27 tò mò nhìn tôi “ Hiệp
có bình thường không? ”. Dù sao tôi cũng không phải rơi vào tình trạng
gởi thư xin tiền nhà như mấy thằng bạn. Mạ tôi nghèo kiếm đâu ra tiền!!!
Về
Trường ba tuần, chúng tôi lại được lệnh đi tiếp đợt 2. Hiệp định Paris vừa ký kết,
phải tăng cường công tác CTCT. Lần này đại đội tôi được phân công về Quảng Nam
–Đà Nẵng. Mấy thằng bạn có Đào ở Huế méo mặt tưởng đâu phen này được
“tái nạm” em yêu. Máy bay C 130 hạ cánh xuống phi trường Hòa Khánh, tôi có cơ hội
vào Trại tạm cư thăm mạ, nhét cho thằng em ít tiền và mấy lời khuyên, rồi lên
xe GMC vào Quảng Nam.
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam là Đại tá Lê Trí Tín. Ông xuất thân từ quân trường Đà Lạt, và trước đây, ông cũng từng ở trong khối Quân sự vụ của Trường Võ Bị nên quan tâm rất chu đáo đến các khóa đàn em. Chúng tôi được cung cấp ưu tiên lương thực, thực phẩm rồi chia ra từng toán nhỏ về các Chi khu. Có toán lên tuốt luốt vùng đồi núi Thường Đức, Quế Sơn; gần gần thì Đức Dục, Điện Bàn, Đại Lộc; đẻ bọc điều thì ở ngay thị xã Hội An…Riêng nhóm tôi về Duy Xuyên.
Duy
Xuyên là một vùng đất cách Đà Nẵng khoảng 45 km phía Tây Nam, nằm dọc theo bờ
Nam con sông Thu Bồn thơ mộng, con sông đi vào thơ ca của người xứ Quảng. Tôi
chưa một lần đến đây nhưng đã thuộc mấy câu thơ của Tường Linh thời trung học:
Tôi
nghĩ về một dòng sông
Dòng sông quê hương có đôi bờ đất mật
Có những tên làng tôi yêu mến nhất
Có triền xanh, gành xám , bãi vàng
Những hàng cừ xe gió nước reo vang
Những thác xiết, nhọc nhằn thuyền lên ngược
Nguồn hai ngã, lòng sông chung nguồn nước
Khúc cạn khúc sâu, phía lở phía bồi
Sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi!
( Dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn)
Một
quận nghèo nhưng hiền lành với những căn nhà nhỏ nép mình sau vườn khoai sắn
xanh ngắt, những ruộng dâu bạt ngàn. Chúng tôi ở trong chi khu, hằng ngày phân
tán thành những nhóm nhỏ làm công tác dân vận ở các xã như Xuyên Thọ, Xuyên
Châu, Xuyên Hòa, Xuyên Phú… Thằng Sanh, nổi tiếng hào hoa, đi một vòng phố chợ
rồi về nói với cả nhóm: “Mấy cô nhan sắc trung bình trở lên đều là “hoa có chủ”
của các anh công tác đợt 1 hết rồi, tao quay về mái nhà xưa thôi”. Nói xong hắn
lúi húi viết thư hẹn hò với em Thành Nội!
Nhớ
lần ở Huế, nhóm tôi được thằng Tiến mời tới nhà ăn giỗ. Cả một bàn dài có đến mấy
chục món nhưng món nào cũng bày chút chút trong những chiếc dĩa nhỏ xíu. Báo hại
cả bọn lúc về phải ghé chợ Đông Ba mua thêm chục mì gói. Thằng Quảng dân Bến
Tre cằn nhằn:
–
“Chịu không nổi kiểu cách của ‘Dân các Mệ’. Cả bàn, tao quơ đũa một phát là sạch
bách. Ăn vậy hèn chi gái Huế cái eo nhỏ chút xíu trông thấy mà thương!”
Còn
đây, người xứ Quảng mộc mạc chơn chất như những món ăn của họ. Khoai lang Trà Đỏa
củ to bằng cái đầu con nít, vỏ trắng ruột vàng phải cắt năm xẻ bảy đem nấu, bột
khoai thơm phức nghẹn tới cổ họng. Ăn món gì cũng có cái bánh tráng kèm theo,
không nướng thì nhúng nước cuốn. Lần đầu tiên tôi biết món Mì Quảng, niềm tự
hào của dân Quảng Nam. Cách nấu không cầu kỳ như bún bò Huế nhưng cách ăn trông
thật ngon với những cây cải non, sợi mì trắng, miếng sườn heo, con tôm
chiên vàng óng, mẩu bánh tráng dòn tan trong miệng, tay cầm trái ớt xanh cắn
cái bụp… Có lần lãnh lương, cả bọn kéo nhau đi ăn đặc sản Bê Cầu Mống ở đầu cầu
Câu Lâu thuộc quận Điện Bàn, tôi ngớ người ra khi nghe chị chủ quán nói “Chừng
nuớ bua rùa. Đừng bỏa nữa mòa mẹn!”( Chừng đó vừa rồi. Đừng bỏ nữa mà mặn!). Dường
như tôi đang nghe lại cái giọng Long Hưng quê kiểng xứ mình!
Tuổi
thanh niên thấy gái như nam châm hút sắt. Qua hai tuần lại thấy các chàng SVSQ
bắt đầu có cặp khi có màn trình diễn văn nghệ với các cô giáo trường Phan Bội
Châu. Anh chàng Sanh phát hiện ra “Vẫn còn nhiều em coi ngộ lắm, mà là hoa
chưa có chủ mới tuyệt! ”.
Thật
sự, con gái vùng Điện Bàn, Duy Xuyên khá dễ thương. Họ không tiểu thư như
gái Huế. Đa số có một vẻ đẹp khỏe mạnh, làn da trắng mát do vùng đất này xưa
kia chuyên dệt lụa nuôi tằm. Họ ăn nói mạnh bạo và khá tự nhiên trong giao tiếp
nhưng với bản chất rụt rè của mình, tôi chẳng kiếm được một em để dung dăng thị
xã Hội An như các bạn.
Vào
một ngày Thứ Bảy, nhóm tôi đi đắp đất làm đường ở xã Xuyên Châu. Cuối tuần nên
anh nào trông cũng vội vàng để về văn nghệ văn gừng với các cô giáo.
Gần 3 giờ, nhóm “Lờ quờ ” gồm tôi, Thế Hân và Kim Long nhận bao giàn cho các bạn
làm nốt đoạn cuối cùng. Ba thằng con nhà ruộng đồng, lại không có em nên
chúng tôi nhẩn nha cho đến xế chiều. Thấy một căn nhà có cái cổng vào bị lún,
ba thằng thấm nhuần công tác dân vận làm luôn. Mọi việc hoàn tất,
chúng tôi vào nhà xin rửa chân tay. Người thiếu phụ, chủ nhà, khoảng trên năm
mươi, nét mặt còn vương nét một thời xuân sắc, không có vẻ mặn mà khi giao tiếp,
chỉ chúng tôi ra giếng sau vườn.
Cái
giếng được bao bọc bằng những viên đá ong mang dấu ấn thời gian. Nước giếng
trong vắt và mát lạnh. Một cây ngọc lan tỏa bóng mát với những búp hoa còn xanh
nhỏ nhắn như ngón tay út của người thiếu nữ đẹp. Tôi đưa tay vít một nhánh thì
bỗng có…trái khế cắn dỡ bay vèo vào cánh tay. Ngước nhìn lên, cách đó khoảng
năm mét, một cô gái đang vắt vẻo trên cành khế cổ thụ. Tôi nghĩ thầm “Cô
này mà bắn tỉa thì hết sẩy!”. Không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà hôm nay
Cóc tôi mở miệng:
–
Xin cái hoa, làm gì dữ vậy cô em?
–
Nhưng nó đang xanh, hái thấy thương!
–
Vậy cô em “trả công” chúng tôi cái gì đây?
Tưởng
nói đùa cho vui, nhưng ai ngờ cô ta nhảy xuống và đi tới chúng tôi với một túi
khế trên tay. Cô khoảng 18, 19 tuổi, mái tóc dài, làn da trắng hồng. Kim Long
buột miệng “ Ui! Chu cha…”
Chưa
nói được câu nào thì từ trong nhà có tiếng gọi:
-Hạnh,
vào nhà ngay!
-Dạ…Cô
gái lè lưỡi, nhét vào tay tôi túi khế nặng rồi chạy biến.
Ba
thằng ra về với “thành quả lao động”.
Tối
hôm ấy, cả nhóm được tráng miệng với những trái khế vàng ươm, ngọt thanh.Thế
Hân thắc mắc: “Sao bà mẹ coi bộ hổng có cảm tình với bọn mình?”. Anh
chàng Thu đào hoa góp chuyện: “Chắc bả sợ con gái rơi vào tay tụi bây, lũ
gian ác!”
Dù
sao tôi cũng đã biết cô gái tên Hạnh và…một cái nốt ruồi lớn ngay dưới chân mày
bên trái. Có lẽ, biết cũng để cho vui thế thôi. Cù lần như tôi nước gì!
*
* *******
Chiều
Chủ Nhật, tôi từ Chi khu ra cái quán nhỏ ở góc chợ thuê mấy cuốn truyện chưởng
của Kim Dung về đọc cho qua ngày đoạn tháng. Cô chủ tên Dung, nghe đâu cũng là
“hoa có chủ” của một anh K27. Đang lúi húi tìm thứ tự mấy cuốn Thiên Long Bát Bộ,
bỗng nghe một giọng nữ phát ra từ cửa quán:
–
Chị Dung, tìm cho em cuốn “Áo tiểu thư” của Duyên Anh. Răng chị…
Câu
nói ngắt ngang nửa chừng khi cô gái nhận ra có bóng người trai lạ đứng
trong góc. Tôi nhìn ra. Đó chính là cô gái có cái nốt ruồi trên chân mày ngày
qua…
Sau
này, khi quen nhau, Hạnh vẫn hay nói đó là duyên kỳ ngộ. Em bảo nhà em
không ai thích lính. Cũng đúng thôi, nhà thơ Hữu Loan đã viết “Lấy chồng
chiến binh, mấy người đi trở lại” cơ mà. Tôi trêu “Ghét của nào trời trao của ấy!”.
Em cúi mặt buồn buồn.
Hạnh
là con gái duy nhất của gia đình.Tên em đơn giản là Trần thị Hạnh. Em kể Ba chết
từ lúc mới sinh, mẹ ở vậy nuôi em khôn lớn. Em vừa tốt nghiệp lớp cán sự y tế
ngoài Đà Nẵng, về quê thăm mẹ trong lúc chờ bổ nhiệm. Tôi thở phào. Em ra trường
sớm mấy tháng, có khi lũ bạn công tác đợt 1 đã dzớt mất rồi.
Tôi
trở lại thăm má Hạnh mấy lần theo lời anh chàng Sanh cố vấn “attack at home”
nhưng lần nào cũng gặp một nét mặt lạnh lùng. Má Hạnh tránh tiếp xúc hoặc
chỉ trả lời nhát gừng những câu hỏi chân tình của tôi. Nhìn bà, tôi liên tưởng
đến nhân vật nữ Anh Cô căm thù đàn ông vì bị Đoàn Nam Đế phụ tình trong cuốn
Anh hùng xạ điêu của Kim Dung. Có lần tôi còn thấy mắt Hạnh hoe hoe đỏ như vừa
mới khóc xong.
Chúng
tôi đành biến quán cho thuê truyện của cô Dung thành nơi hò hẹn. Giai đoạn đầu
chẳng biết nói chuyện chi, cứ đem mấy cuốn truyện ra mà tán về các nhân vật hoặc
chuyện nắng mưa…Ấy thế mà vắng nhau một ngày đã thấy nhơ nhớ…
Nhưng
có lẽ tình yêu làm cho người ta thông minh ra. Nghe bạn bè, một chiều Thứ Bảy
tôi bạo gan rủ nàng đi chơi nhà thờ Trà Kiệu. Mượn chiếc Honda Dame của
cô Dung, tôi chở Hạnh lên đường.
Nhà
thờ núi Trà Kiệu nằm trên ngọn đồi Bửu Châu cao khoảng 60 mét thuộc xã Xuyên Kiệu.
Đó là một ngôi nhà thờ cổ được trùng tu từ thế kỷ XIX. Đứng ở tháp chuông,
chúng tôi nhìn xuống và ngợp trong màu xanh biêng biếc của cây lá dọc theo hai
bờ của dòng sông Thu Bồn thơ mộng. Hàng me tây cổ thụ che rợp mát khu vực nhà
thờ và gần đó là một ngôi trường tiểu học do các nữ tu đảm trách. Những chiếc
áo choàng đen trong bóng chiều tạo nên một vẻ đẹp nao lòng. Hạnh cúi đầu
kính cẩn khi đi qua những bức tượng tái hiện mười hai chặng đường
Thánh giá của Chúa Giê Su. Nàng chỉ cái giếng nước mà người xứ đạo phong là giếng
nước Thánh. Ai chân tình cầu nguyện khi uống sẽ toại nguyện với ước vọng của
mình. Hai đứa cùng ngậm ngụm nước mát. Hạnh nhắm hai mắt lại giây lâu. Tôi hỏi
em cầu nguyện điều chi? Em thầm thì “Bí mật!”.
Chúng
tôi ngồi nghỉ mệt bên một triền bắp ven sông. Hạnh nói với tôi cách đây khoảng
25 km là Thánh địa Mỹ Sơn, Vương quốc của triều đại Champa cũ. Tiếc rằng chúng
tôi không đến được vì lý do mất an ninh. Ánh nắng chiều trải trên dòng sông
Thu, gió mơn man như quạt hầu. Dòm kỹ cái nốt ruồi của em coi thật ngộ. Nó hồng
hồng và nổi như một hạt đậu cuối chân mày. Em đỏ mặt xấu hổ khi thấy tôi cứ dòm
chằm chằm vô mặt. Tôi kể cho em nghe về làng quê của mình, về tuổi nhỏ chăn
trâu cắt cỏ, về góc vườn mỗi khi giận mạ thường ra ngồi gục mặt rồi ngủ thiếp
lúc nào không hay…Hạnh chủ động cầm tay tôi bóp chặt.Tôi nghe rõ hơi thở dồn dập
của em. Và thằng con trai 22 tuổi lần đầu tiên biết thế nào là câu hát của Phạm
Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên “Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…”
Chúng
tôi đã…thật sự yêu nhau từ giây phút đó. Có Hạnh tôi bớt cù lần hơn. Nhóm “Lờ
quờ” mất cái đầu tàu. Hai thằng bạn bắt tôi bao một chầu Mì Quảng ở Ngã
ba Nam Phước trước khi từ giã nhóm. Chuyện nhỏ đối với một gã trẻ tuổi đang say
hương vị tình yêu!
Chúng
tôi đã có những ngày thật thú vị. Hạnh đưa tôi đi Hội An thăm lại ngôi trường
Trần Quý Cáp thời nàng học trung học. Hai đứa lên Chùa Cầu nhìn tượng con chó
và con khỉ, lang thang trên con đường nhỏ dọc sông Hoài ngắm những ngôi nhà lợp
ngói âm dương. Tôi biết thêm món ăn độc đáo xứ Hội như cao lầu, bánh tráng đập
Cẩm Nam, chén chè “ chí mà phù” của ông Tàu già trên phố Nguyễn Thái Học.
Có một điều làm tôi cảm động, dù hơi ngượng, là thỉnh thoảng khi trả tiền, cô
chủ quán bảo “cô bạn anh trả trước rồi”.
Mỗi
lần như thế, Hạnh bảo – Để mặc em, cho nó vui.
Nhưng
có lẽ Hạnh thích nhất là khi tôi tặng nàng tập thơ “Thuở làm thơ yêu em” của Trần
Dạ Từ . Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ cái màu cà phê sữa của cuốn sách.
Những câu thơ tài hoa như dành riêng cho chúng tôi trong bài thơ Nụ hôn đầu :
“ Lần
đầu ta ghé môi hôn
Những con
ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn
xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây
phượng vĩ huy hoàng trổ bông…”
Tôi
ghi dòng chữ trên đầu trang : “Để em đọc khi nhớ anh”. Hạnh bảo:
–
Đây sẽ là cuốn sách gối đầu giường của em. Mãi mãi.
Khi
yêu Hạnh, thật sự tôi đã nghĩ đến một mái ấm gia đình. Lăng nhăng không phải là
bản chất của thằng tôi cù lần. Chúng tôi còn hơn hai năm để nuôi dưỡng tình
yêu... Nhưng thật khó khăn khi tiếp cận với má nàng để bà hiểu tôi là người
tử tế.
Suy
nghĩ lâu lắm, Hạnh cắn môi bảo tôi:
-Thứ
Bảy này mình lên nhờ bà Ngoại. Ngoại thương em lắm. Mà anh mặc đồ civil nhen.
Bà
ngoại Hạnh ở Gò Nổi thuộc quận Điện Bàn. Bà trên 70 nhưng còn khỏe mạnh, giọng
nói sang sảng. Trên bàn thờ có hình một ông mặc phẩm phục triều đình trông rất
quắc thước. Hạnh bảo tôi đó là ông Cố, một trong Ngũ phụng tề phi của xứ Quảng
Nam, niềm hãnh diện của dòng họ ngoại.
Bà
đón tiếp cô cháu gái thật vồ vập: – Cha mày. Mấy lâu đi mô mất mặt không thấy
thăm bà?
Niềm
vui của bà lan qua cả bạn của cháu. Bà sai đứa cháu nhỏ múc nước lấy khăn cho
tôi rửa mặt, leo dừa hái trái “hai đứa”uống, ra vườn thử xem có trái mít
nào trở tiếng thì chặt xuống cho “tụi nó” ăn…Đúng là một bà ngoại xứ Quảng nồng
hậu mà chơn chất.
Bửa
cơm trưa thật ngon miệng với thịt luộc chấm mắm cái, rau cải nấu canh cá rô
thêm chút gừng.Tôi nằm trên bộ ngựa bằng gõ thiu thiu ngủ, hai bà cháu rì rầm
to nhỏ ở phòng trong...
Chúng
tôi ra về khi chiều đà nhạt nắng. Cái nhìn của bà cụ đối với tôi chăm chú hơn
nhưng không còn vẻ ồn ào như ban sáng. Hạnh phụng phịu hờn dỗi và không chịu
mang trái mít về làm quà như dự định.Trên đường nàng im lặng nép sát người
vào lưng tôi. Một linh cảm bất an trong lòng. Gia đình nàng chê tôi điểm nào???
*
* * *******
Mười
ngày liền tôi không gặp được Hạnh. Nhờ vã cô Dung hai lần nhưng không ăn thua,
má nàng giữ rịt trong nhà. Lại nghe bạn bè xôn xao đợt công tác có thể sắp
kết thúc nhường cho K 29, lòng tôi như lửa đốt. Có đêm tôi liều mạng mượn chiếc
Honda phóng về Xuyên Châu. Ngang nhà nàng cửa đóng kín mít, ánh đèn nhỏ hắt ra
leo lét. Kim Long ngăn tôi : “Coi chừng có bữa anh Hai ăn súng của bọn du kích.
Xứ này coi thế nhưng không hiền đâu!”
Chiều
thứ ba, đang ngồi đánh domino với đồng đội thì anh chàng Thu đi về bảo tôi:
-Tao
thấy má vợ của mày ngồi xe ôm đi đâu về hướng Điện Bàn.
Cơ
hội trời cho, tôi vất mấy con bài cho Kim Long rồi vẫy xe đi Xuyên Châu…
Nhà
vắng ngắt nhưng cửa vẫn mở.Tiếng nước xối trong phòng tắm dưới nhà ngang. Để
cho Hạnh khỏi ngượng ngùng, tôi không lên tiếng.Tôi nhìn kỹ mấy bức hình trên
vách . Hình bà má hồi còn trẻ bế Hạnh trong lòng; hình Hạnh ôm con búp bê thời
nhỏ; hình nàng trong chiếc áo blue trắng đang thực tập ở bệnh viện, cái nốt ruồi
có món tóc mai che ngang… Phía bên kia là chiếc giường nhỏ có cái áo gối màu hồng
thêu những bông hoa li ti, trên gối còn vương vài sợi tóc dài. Chắc Hạnh vừa nằm
ngủ trưa xong.Tôi ngồi xuống cạnh giường, tự dưng có cái ý nghĩ thật lãng mạn
là nhặt một vài sợi tóc của nàng làm của riêng. Dưới gối cồm cộm một cuốn
sách.Tôi lật lên. Đúng là tập thơ của Trần Dạ Từ. Tôi nhớ câu nói của Hạnh hôm
nào “Đây sẽ là cuốn sách gối đầu giường của em”, lòng xao xuyến một thứ tình cảm
ngọt dịu.
Tôi
lật vài trang sách, một tờ giấy nhỏ gấp tư kẹp ngay bài thơ “Mối tình đầu”.
Quả thực là tôi không nghi ngờ gì về tình cảm của Hạnh nhưng tôi vẫn tò mò giở
ra. Nét chữ cứng cáp, chân phương có mấy dòng :
“Hạnh, Ba đã nghe bà ngoại nói chuyện. Con
hãy chấm dứt ngay mối quan hệ không lành mạnh đó. Có cơ hội chúng ta sẽ
trao đổi thêm.Trước mắt, chuẩn bị cho Ba ít thuốc kháng sinh.Sẽ có giao liên về
lấy trong tuần tới.”
Tôi
choáng người. Ba Hạnh chưa chết như nàng đã nói với tôi? Thứ ngôn ngữ này rõ
ràng là loại ngôn ngữ của phía “bên kia”. Có lẽ nào ba nàng là cán bộ Cộng
Sản hoạt động nằm vùng? Có tiếng động dưới nhà ngang.Tôi đặt cuốn sách dưới gối
trở lại ngồi ở bàn giữa, cố gắng giữ nét mặt thật bình tĩnh.
Hạnh
xuất hiện trong bộ đồ hoa màu tím nhạt. Em mừng rỡ “a” lên một tiếng rồi sà xuống
bên cạnh tôi, thì thào “Em nhớ anh quá!”.Mùi hương chanh và mùi tươi mát của da
thịt con gái nồng nàn bốc lên nhưng quả thật tôi không còn lòng dạ nào để rung
động. Tôi đẩy nhẹ người Hạnh ra. Nàng hơi khựng lại rồi hỏi tôi: “Anh đến
lâu chưa? Sao anh biết má vắng nhà?” .Tôi trả lời “Do tình cờ vậy
thôi”.
Những
cảm xúc trong tôi đã bị dội một thùng nước lạnh. Đầu tôi rộn lên nhiều câu hỏi
khó trả lời. Hạnh không giấu sự vồ vập và hé môi chờ đợi một nụ hôn say đắm
nhưng tôi chỉ chạm phớt vào môi. Nụ hôn lần này sao nghe vị đắng chát. Tôi có cảm
tưởng bị lừa dối, thậm chí hơi sợ hãi. Có lý nào cô ấy đang giăng bẫy tôi, một
chàng Sinh viên Võ Bị, một Sĩ Quan quân lực VNCH tương lai ?
Người
hàng xóm qua chơi kéo tôi thoát khỏi sự khó xử. Lấy cớ phải về họp gấp, tôi từ
giã Hạnh trong nét mặt phụng phịu của nàng.Tôi đang cần thời gian để suy nghĩ.
Đêm
hôm ấy tôi trằn trọc mãi. Gói Capstan gần hết dù tôi không phải là thằng nghiện
thuốc lá.Tôi đã hiểu ra thái độ lạnh nhạt của má và bà ngoại nàng. Tôi tự vấn
xem có khi nào Hạnh hỏi mình về lĩnh vực quân sự chưa? Có khi nào mình sơ suất
tiết lộ điều gì chăng. Rõ ràng tôi yêu Hạnh nhưng phương châm của trường Mẹ đã
khắc sâu “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm”. Tôi thiếp đi với điều
tâm niệm thứ tám trong Mười Điều Tâm Niệm của SVSQ/TVBQGVN : “Không có gì là
không thể làm được đối với SVSQ”.
Tuần
sau đó tôi nằm mẹp trong Chi khu. Hai lần có lời nhắn của cô Dung ra quán sách
nhưng một lần tôi cáo ốm và một lần kêu bận công tác. Tôi không đủ can đảm để gặp
Hạnh. Tôi sợ mình sẽ bị lung lay bởi đôi mắt ướt và cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ
cuối chân mày.
Rồi
cũng đến ngày từ giã Duy Xuyên. Hạnh gởi qua Kim Long cho tôi một túi nhỏ gồm
những mứt bánh thổ sản, sáu chiếc mouchoir có hai chữ H lồng nhau và lá thư chỉ
có một dòng “Em yêu anh mãi mãi”.Tôi nhếch môi cười cay đắng, đem mớ quà
cho bạn bè liên hoan, sáu cái khăn tay tôi để lại trên cái ghế bố ngủ đêm ở Chi
khu và xé bức thư thành những mảnh nhỏ.
Ngày
leo lên chiếc GMC ra phi trường quân sự Đà Nẵng, đưa mắt nhìn quanh, tôi nhận
ra Hạnh đứng nép sau một cây phượng lớn. Em nhìn tôi, môi mấp máy điều gì không
rõ. Thôi đành. Vĩnh biệt mối tình đầu oái oăm!
*
* * ********
Về
lại trường, chúng tôi chúi mũi vào học Văn hóa bù lại cho chuỗi ngày công tác.
Sự bân rộn làm tôi không nghĩ ngợi nhưng khi đêm về tôi luôn nhớ đến Hạnh và những
cái hôn mềm môi ướt rượt.Tôi nhận gác thay cho đồng đội ở Tiền đồn hoặc Đài tử
sĩ mà không chút phân vân. Quên, quên và phải quên.
Nhưng
bất ngờ thay, tôi trở thành người nổi tiếng của Đại đội vì những lá thư dồn dập
bay về. Nét chữ màu tím mảnh mai của Hạnh! Một tuần tôi nhận đúng bảy lá! Một
tháng đủ ba mươi chiếc phong bì! Tay đàn em K30 mỗi lần nhét thư vào phòng dù cố
gắng nghiêm trang nhưng không giấu nổi nụ cười tủm tỉm.
Tôi
không mở bất kỳ lá thư nào. Tôi kiếm một cái túi nilon và gom nó lại. Rồi cô ấy
cũng sẽ hết kiên nhẫn.
Tháng
sau, tôi có một lá thư với nét chữ lạ. Tôi mở phong bì. Dòng chữ ngắn của cô
Dung: “Sao anh Hiệp không viết thư cho Hạnh?”. Tôi bỏ chung vào gói thư, không
trả lời. Thời gian qua…
Đã
gần cuối năm thứ ba.Tôi vẫn là một anh trai tân. Thật đáng thương hại khi trong
đêm trao nhẫn truyền thống, tôi cầm lấy chiếc nhẫn tự lồng vào ngón tay mình.
Tôi tiếp tục làm nhóm trưởng nhóm “Lờ quờ”, không quan tâm đến sự mối mai của bạn
bè với các em gái Bùi Thị Xuân hoặc với những cô sinh viên Đại Học Chính Trị
Kinh Doanh Đà Lạt danh giá.
Một
chiều thứ Bảy, có tiếng của Sinh viên trực nhật trên loa phóng thanh gọi tôi ra
hội quán Huỳnh Kim Quang gặp người thân. Không thể là mẹ tôi, người suốt đời
chưa bao giờ nghĩ mình được ngồi máy bay, dù chỉ một lần. Không thể là em tôi
đang chúi đầu trên giảng đường Đại học ở xứ Huế xa xôi. Chỉ có thể là Hạnh?
Lúc này tôi đã chuyển đại đội.Tôi chạy tìm Kim Long hiền lành cộng thêm anh
chàng Thu hào hoa nhiều chiêu trốn gái ra hội quán tìm hiểu và cứu giúp.
Lòng tôi như đánh lô tô. Ba mươi phút sau, Thu trở lại cười rộng miệng
“Xong rồi.Tao
bảo mày đã hỏi vợ ở quê!”. Kim Long đi sau mặt buồn xo bảo tôi : “Anh Hai
ác quá. Em khóc nhiều lắm. Tội quá trời luôn!”.
Đêm
hôm ấy, tôi đốt hết tập thư của Hạnh.Trong mắt bạn bè cùng đi công tác Duy
Xuyên, nhất là Thành Sang, Sinh viên Sĩ Quan phụ trách câu lạc bộ Huỳnh
Kim Quang, tôi là thằng Don Juan. Sang bảo
“Thấy con
nhỏ thất thểu ra về, tao muốn đấm vào mặt mày một cái ”. Cũng đành!
*
* * ****
Tôi
sẽ không nói nhiều về thời gian hơn hai năm đi tù, thân phận không bằng một con
vật. Mạ tôi đã hồi cư cất túp lều trên nền đất cũ Long Hưng, em trai tôi bỏ học
cầm cái bay đi làm thợ hồ. Tôi thành “con bà Phước” sống nhờ vào các niên
trưởng và các chiến hữu có thân nhân thăm nuôi. Ngày cầm giấy ra trại, niên trưởng
Huỳnh công Kỉnh, K25 còn phải cho tôi tiền mua vé tàu. Về làng xưa
vào ngày cuối năm lúc trời đã chạng vạng, mạ ôm chầm lấy tôi rồi nghẹn
ngào bảo “Vào Nam đi con. Không sống nổi ở đất ni mô. Thay đổi hết rồi.
Sâu bọ lên làm người rồi!”.Tôi ở được với mạ một đêm, cầm trong tay cái địa chỉ
của người làng tận Sài Gòn, ăn hai bữa cơm trộn bắp rồi lại ra đi…
Trên
chuyến xe Bắc Nam ọp ẹp, tôi đi qua vùng đất Quảng Nam đầy ắp kỷ niệm xưa…Hòa
Khánh, Hòa Cầm, Cẩm Lệ, Vĩnh Điện, Duy Xuyên…Chắc bây giờ Hạnh đang ở
trên đà danh vọng, có khi làm bà Cán Bộ cũng nên. Tôi
cũng chẳng ân hận gì. Tôi với nàng rõ ràng là hai đường thẳng song song.
Tôi
cũng chẳng muốn nhắc lại tháng ngày ngược xuôi kiếm sống trên đất Sài Gòn. Người
làng cũ đã bán nhà đi kinh tế mới. Tôi nằm vơ vất ở bến xe Miền Đông ba đêm rồi
may mắn gặp lại Ngọc, thằng bạn cùng đại đội... Hắn giúp tôi gặp nhóm bạn cũ
đang thay nhau đạp xích lô từng ngày; có khi lại mang vác hàng cho mấy bà bán
phụ tùng xe đạp ở chợ Trời; có khi lang thang không biết đêm nay mình sẽ ăn
đâu, ngủ đâu. Đúng như câu thơ của Lý Bạch “Xử thế nhược đại mộng!”. Cuộc
đời quả là một giấc mộng lớn. Mới ngày nào chúng tôi còn là những chàng
trai hào hoa ấp ủ nhiều hoài bão.Tôi nghe tin anh Hoàng Tấn đã bị bắn chết vì
phản kháng ở Đơn Dương- Đà Lạt. Bạn bè cũ có thằng vượt biên thoát, thằng
mất tích, thằng còn ở trong các trại giam, thằng vào rừng tìm lực lượng kháng
chiến…
Rồi
cuộc đời đưa đẩy tôi lưu lạc qua đất Campuchia bằng xe đò ở Tân Châu-Hồng Ngự.
Tôi làm nghề cắt tóc dạo ở Phnompenh, bỏ mối thuốc cho một ông Trùm buôn lậu
thuốc Tây của Xí nghiệp Quốc doanh Việt Nam kiếm cơm hàng ngày, thậm chí có khi
còn làm y tá chích thuốc dạo cho bệnh nhân. Ơn trời, chưa nghe ai chết! Tôi
giao tiếp với người Cam ở các chợ Schabarbauu, chợ Chắc Nghệ… Đôi khi thất
chí, muốn lấy đại một cô Miên quấn xà rông, có mấy cái răng vàng 24 karat
sáng chóe chuyên ăn mắm bò hóc cho xong đời!
Tình
cờ tôi quen anh Tài, một Việt Kiều Miên về nước năm 1972 lúc người Việt bị cáp
duồn. Anh lên lại Nam Vang làm ăn và có ý định vượt biên qua Thái
Lan. Anh cần một tay sử dụng súng sẵn sàng bắn vào Công an hoặc hải tặc. “Một
liều ba bảy cũng liều”, tôi nhận công việc này.
Chúng
tôi lên Kompongsom mua một chiếc ghe cũ bề ngang 2m dài 7m được tân trang, sửa
lại lốc máy và khởi hành vào một đêm tháng Tám từ Vịnh Tân Hao... Trên ghe có
sáu người lớn và hai con nít. Ghe không dám đi gần bờ vì sợ lính biên phòng của
Miên. May mắn thay, gần tới KoKong thì trời đổ mưa lớn che khuất tầm nhìn của
các trạm gác. Lênh đênh trên biển 4 ngày chúng tôi gặp những chiếc tàu treo cờ
Thái và ghe đi đúng hướng cập vào tận một hải cảng. Tôi chưa phải sử dụng cây
M16!
Lúc
quyết định theo anh Tài tôi có ý nghĩ nếu chuyến đi không thành công thì biển sẽ
là mồ chôn cuộc đời đã tận đáy xã hội của mình.Tôi chẳng còn sợ gì cái chết.
Tôi cũng dự định nếu đến được Thái Lan thì sẽ ngữa mặt lên trời cười ba
tiếng bù lại hơn 10 năm tủi nhục sau ngày Miền Nam sụp đổ. Nhưng tôi không làm
được điều này vì chỉ kịp xách cái bao đi theo người lính Thái về trại tạm trú
Leam Ngộp.
Sau
ba tuần ăn, ngủ, nghỉ, chúng tôi chuyển lên trại chính là Panat Nikhom. Nghe
nói chỉ hai tháng sau, trại tạm cư đóng cửa không còn chấp nhận người tị nạn Việt
Nam.Và ở đây, tôi đã quen Minh Hạnh, vợ của tôi bây giờ.
Qua bao nhiêu gian khổ, tôi không còn giữ được bất cứ một thứ giấy tờ nào.Tôi chỉ còn nhớ số quân của mình. Nhưng may mắn thay, khi được Cao ủy Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, tôi gặp Thiếu tá niên trưởng Tôn Thất Diên K10, Trưởng khoa Anh Văn của Trường Võ Bị, đang làm phiên dịch cho phái đoàn.Thầy đã tận tình giúp đỡ tôi. Chao ôi là ân tình của trường Mẹ! Tôi được nhập cư vào đất Mỹ. Trong tháng ngày chờ đợi và học nghề ở Phi Luật Tân, bạn bè K28 cũng đã yểm trợ cho tôi một ít tài chánh trong tình nghĩa đồng môn, bạn bè cùng khóa…
Qua bao nhiêu gian khổ, tôi không còn giữ được bất cứ một thứ giấy tờ nào.Tôi chỉ còn nhớ số quân của mình. Nhưng may mắn thay, khi được Cao ủy Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, tôi gặp Thiếu tá niên trưởng Tôn Thất Diên K10, Trưởng khoa Anh Văn của Trường Võ Bị, đang làm phiên dịch cho phái đoàn.Thầy đã tận tình giúp đỡ tôi. Chao ôi là ân tình của trường Mẹ! Tôi được nhập cư vào đất Mỹ. Trong tháng ngày chờ đợi và học nghề ở Phi Luật Tân, bạn bè K28 cũng đã yểm trợ cho tôi một ít tài chánh trong tình nghĩa đồng môn, bạn bè cùng khóa…
Như
bao người đến Mỹ muộn màng, nên vợ chồng phải hùng hục kiếm sống. Một người ôm
2,3 jobs và thay đổi công việc liên tục từ hầu bàn, rửa bát, làm vườn, dọn tuyết,
sơn nhà, giữ trẻ…đêm về còn phải đi học ESL . Bên nhà báo tin mạ mất , tôi cũng
chẳng thể trở về. Thôi thì buổi chiều ly biệt cuối năm đó, tôi cũng đã nhủ
thầm “Lạy mẹ, con đi”…
Tôi
cũng không hiểu sao vợ tôi lại có cái tên trùng với Hạnh Duy Xuyên? Lại sinh
cùng năm ký hiệp định Geneve 1954. Minh Hạnh người Vĩnh Long và hiền lành như
cây trái miệt vườn sông Hậu. Cô ấy chưa bao giờ hỏi tôi về quá khứ và cũng
không biết gì về Trường VBQGVN với những chàng trai quân phục dạo phố worsted,
Jaspe, cầu vai alfa đỏ… Chúng tôi từng bước ổn định cuộc sống với hai con gái
chăm ngoan.
Sau
những nhọc nhằn, giờ đây tôi đã có những phút giây thư giãn. Tôi bắt đầu liên lạc,
thư qua tin lại với bạn bè xưa. K 28 có đâu khoảng 50 người trên đất Mỹ. Bạn bè
hầu hết đã quá 60, lâu lâu lại nghe tin buồn một thằng về “Vùng V”. Ôi! Đời
người như bóng câu qua cửa sổ.
Năm
ngoái, tôi về Houston, Texas tham dự Đại hội Võ Bị lần thứ 19. Thật cảm động
khi gặp lại những gương mặt “gian ác” thuở nào. Chúng tôi hò hét, cười
đùa y như những chàng trai mới lớn. Nhắc lại kỷ niệm xưa có thằng rươm rướm nước
mắt dù tóc trên đầu đã ngã màu bạc trắng.
Hôm
đến nhà hàng Kim Sơn dự dạ tiệc, ngang qua một số chị em Hội Phụ nữ Lâm Viên,
tôi chợt nghe tiếng gọi:
– Anh Hiệp…Có
phải anh Hiệp không???
Tôi
dừng chân. Trước mặt tôi là một người đàn bà còn vẻ duyên dáng trong chiếc áo
dài xanh truyền thống…Nhưng tôi không thế nào nhớ nổi đó là ai.
Người
đàn bà mỉm cười: -Trông anh không thay đổi mấy. Em nhận ra ngay. Dung Duy
Xuyên đây! Anh còn nhớ không?
-Ồ, cô Dung Duy Xuyên, người góp phần mai mối cho mối tình đầu của tôi ở Quảng
Nam.
Chúng
tôi mừng rỡ. “Tha hương ngộ cố tri ”, hạnh phúc nào bằng! Chúng tôi bồi hồi
nhắc lại chuyện hơn 40 năm về trước, thời tôi là một anh SVSQ cù lần và Dung với
cái quán cho thuê sách ở góc chợ…Dung đã lấy vị Niên trưởng K27 khi anh đi “tù
cải tạo” về và hai vợ chồng qua Mỹ theo diện HO năm 1992.
Dung
chợt nghiêm mặt hỏi tôi:
– Anh có
nhớ gì về Hạnh không?. Tôi cười cười:
– Sao? Cô
ấy làm bà Bí thư Tỉnh ủy chưa? Có bao nhiêu biệt thự rồi?
-Anh
không biết thật sao? Đàn ông các anh thật vô tâm…Nó tội lắm.
Dung
kể cho tôi nghe. Quả thực như tôi nghĩ, ba Hạnh không chết như trong lý lịch đã
khai. Ông tập kết ra Bắc khi Hạnh còn nằm trong bụng mẹ và trở về Nam từ những
năm 70. Ông móc nối với gia đình để được tiếp tế và hoạt động trên đất Quảng
Nam. Đó cũng chính là lý do mà cả bà ngoại và má Hạnh ngăn cản không cho Hạnh
giao tiếp với tôi, một người lính VNCH. Sau ngày tôi trở về trường không lời từ
giã, Hạnh đau khổ lắm. Không nhận được thư hồi âm, cô trốn nhà lặn lội vào Đà Lạt.
Trước thái độ cự tuyệt lạnh lùng và dứt khoát của tôi, cô về sống lầm lủi ở
Xuyên Phước, phụ trách phòng Hộ sinh Xã.
Ngày
miền Nam mất, ba Hạnh công khai xuất hiện với cương vị một “cán bộ Cách Mạng”
cao cấp trong sự mừng rỡ của người mẹ chờ đợi đằng đẳng 20 năm ròng.
Nhưng ngày vui ngắn ngủi chẳng được bao lâu. Sự thủy chung của bà đã bị trả giá
khá phũ phàng. Chỉ bốn tháng sau, một người đàn bà miền Bắc xuất hiện với những
đứa con sau lưng... Ba Hạnh lúng túng giải thích, nhưng mọi chuyện đã quá rõ
ràng. Má Hạnh không có con trai. Căn nhà từ đường có cây ngọc lan, có cái giếng
đá ong đành để lại cho gia đình mới. Hai mẹ con trở về Điện Bàn sống với
bà Ngoại trong ngôi nhà tôi đã một lần đến thăm.
Hạnh
từ chối đặc quyền đặc lợi dành cho “con em chính sách” đi học Bác sỹ ở Hà
Nội. Mẹ Hạnh suy sụp hẳn đi và mất sau một cơn đột quỵ. Trước khi mất, bà cầm
tay Hạnh ứa nước mắt như một lời xin lỗi muộn màng. Mãn tang mẹ, Hạnh quyết định
đi tu Thiên Chúa giáo dòng Phước Môn. Và hiện giờ nàng đang là một nữ tu phụ
trách trường trẻ em mồ côi gần Nhà thờ Núi Trà Kiệu!
Tôi
ngồi lặng.Trong đầu tôi dần hiện ra hình ảnh cô gái có khuôn mặt trắng mát, cái
nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối chân mày, một buổi chiều tháng Ba,ngôi nhà thờ cổ,
ngụm nước giếng mát lạnh và …nụ hôn đầu. “Lần đầu ta ghé môi hôn. Những con ve
nhỏ hết hồn kêu vang…”
Tôi biết
mình sẽ có nhiều đêm mất ngủ. Hạnh ơi!…
Hương Thủy
No comments:
Post a Comment