NGƯỜI BẠN DA ĐEN
Hồ nước sau nhà anh chị Đoàn Đông – Lộc
Tưởng ở Weymouth có một bầy vịt. Chúng không phải do anh chị mua về nuôi từ tấm
bé mà chỉ vì anh chị săn sóc nên chúng ở lại. Mỗi lần qua thăm tôi thường ngồi
trên chiếc ghế bên hồ và ngắm cảnh đàn vịt quấn quít bên nhau. Khung cảnh hòa
bình, đầy thi vị và thiền vị ở đây dường như ảnh hưởng đến cung cách của bầy vịt.
Khi anh Đông mang thức ăn ra rải bầy vịt từ tốn bơi đến ăn, nhường nhịn nhau,
không giành giật tung nước vào người du khách như đám vịt ở Boston Common.
Trong bầy vịt đông đúc lại có một chú ngỗng trắng đến định cư. Không phân
biệt chủng loại và màu lông, chúng quanh quần bên nhau trong một góc hồ. Chị Lộc
Tưởng rất thương chúng. Chị bảo nhà hàng xóm có một đàn ngỗng gồm một ngỗng mẹ
và bốn ngỗng con. Mẹ và chị cả chết trong mùa đông năm ngoái. Ba anh chị em ngỗng
sang tá túc nơi bờ hồ nhà chị và làm bạn với đàn vịt ở đây. Hôm trước, hai
trong số ba con ngỗng tập bay và một buổi sáng chúng bay đi mất, để lại chú ngỗng
út lẻ loi. Mỗi lần cho vịt và ngỗng ăn, anh chị lại nghĩ đến hai chú ngỗng đã
bay đi xa. Mùa đông New England khắc nghiệt. Theo dự báo thời tiết, năm nay trời
sẽ lạnh hơn năm ngoái nhiều, biết chúng có sống sót được hay lại chết như mẹ và
chị của chúng. Chị cầu dù ở nơi nào mong cho chúng được bình an sau trận bão
Sandy vừa rồi và những cơn bão tuyết sắp sửa qua đây.
Nhìn bầy vịt và ngỗng từ bốn phương trời mây nước gặp nhau, tôi chợt nghĩ
đến tình bạn, thật thiêng liêng và cần thiết về cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu
chẳng may một con bơi lạc sang một góc nào đó trong hồ nước rộng này, con đó sẽ
chết vì cô đơn và đói khát.
Giống như chú ngỗng sống giữa bầy vịt đen, ở Boston, tôi cũng có người bạn
da đen thân thiết. Nếu không có cậu ấy, những ngày tháng đầu của tôi ở Boston,
vốn khó khăn chắc đã khó khăn hơn.
Ngày mới đến Boston, bác Tôn Thất Ân và anh Hà Tân, những người làm việc
cho International Institute of Boston mỗi tuần mấy bận dắt tôi đi tìm việc làm.
Tôi cần một việc làm bán thời gian để có ít tiền lo lắng cho gia đình bên nhà
và đi học. Không nơi nào nhận tôi. Lau nhà rửa chén cũng không được. Lý do như
anh Hà Tân bảo có thể vì tôi ốm yếu quá, những người phỏng vấn nhìn vóc dáng
trói gà không chặt của tôi, không tin tưởng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ.
Mãi cho đến cả năm sau, tôi mới tìm được một việc làm bán thời gian ở
trong nhà bếp của bịnh viện New England Deaconess ở Brookline. Thời gian đó,
tôi học ở Boston University rất gần với bịnh viện New England Deaconess. Mỗi
chiều học xong tôi đón xe bus qua đó làm cho đến mười giờ tối. Trong nhà bếp của
bịnh viện, ngoài trừ ông quản trị viên và những đầu bếp chính là người da trắng,
còn lại đều da đen và một mình tôi gốc da vàng. Sau sáu giờ chiều, các đầu bếp
và cả ông quản trị viên đều ra về, nhà bếp toàn là thợ da đen do một anh trưởng
nhóm, cũng là da đen, quản lý.
Công việc của tôi là mang thức ăn đến cho bịnh nhân, chờ họ ăn xong, mang về và
đưa vào máy rửa. Mỗi chiều tôi phải xếp các khay thức ăn vào một chiếc xe kín
và đẩy đến từng phòng bịnh nhân. Công việc này đối với người khác chắc nhẹ
nhàng nhưng với tôi lại rất nặng nề.
Tôi không biết bây giờ có cải tiến chưa nhưng thời đó những xe chứa thức
ăn bịnh nhân được làm bằng sắt, bọc kín bằng những lớp kim khí dày. Bịnh viện
New England Deaconess đang đươc xây cất rộng thêm nên các khu chuyên khoa tạm
thời nối với nhau qua những lối đi dài và hẹp. Đoạn đường tư khu bịnh viện
chính sang Joslin Diabetes Center dài gần nửa dặm và phải qua nhiều dốc cao.
Tôi không đẩy nổi chiếc xe thức ăn lên dốc. Mỗi khi đến chỗ dốc, tôi phải đứng
chờ một người đàn ông nào đó đi qua và nhờ họ phụ. Việc giữ cho chiếc xe chất đầy
thức ăn xuống dốc cũng là chuyện gian nan. Rất nhiều khi xe chênh vênh gần như
muốn ngã. Khi tôi sắp sửa đầu hàng, nghỉ việc để đi tìm việc khác thì Sean đến
với tôi.
Sean là một thanh niên da đen ở Roxbury, cách Boston chừng vài dặm về
phía tây. Công việc chính của cậu ấy là chạy máy rửa chén. Cậu làm ở nhà bếp bịnh
viên New England Deaconess trước tôi xa. Trong giờ giải lao, tôi không quen ai
nên ngồi một mình trong góc nhà bếp, có khi làm bài và có khi đọc sách mượn của
thư viện Boston. Có thể vì thấy tội nghiệp cho chú da vàng lẻ loi trong tuyệt đại
đa số da đen làm trong nhà bếp nên Sean đến bắt chuyện. Sean mang đến nhiều thức
ăn và cùng ăn tối với tôi. Cậu hỏi tôi về chuyện học hành và có vẻ thán phục
khi biết tôi học đang học đại học mà lại học ngành điện toán rất khó. Những năm
đầu thập niên 1980, học điện toán, một ngành còn rất mới, là một thử thách lớn
lao không phải cho người Việt mà bất cứ người gốc xứ nào.
Những ngôn ngữ điện toán Assembly,
Pascal, Fortran hoàn toàn xa lạ đối với sinh viên. Tôi học điện toán thay vì
kinh tế như khi còn ở Việt Nam đơn giản chỉ vì, theo người ta nói, ngành điện
toán dễ kiếm việc làm. Sean không đi học. Cậu làm toàn thời gian ở bịnh viện
này. Trước ngày tính nghỉ việc, tôi thố lộ lý do với Sean. Tôi rất cần tiền
nhưng chưa biết sẽ tìm việc nơi đâu. Tôi đang đứng trước một ngọn núi khác của
đời mình nhưng giống như nhiều lần trước, tôi phải tìm cách vượt qua.
Sean bảo đừng nghỉ, việc khó khăn của tôi là chuyện nhỏ, cậu sẽ giải quyết.
Từ đó, chiều nào tôi đi làm cũng có Sean. Làm cho bịnh viện với công việc đem
cơm cho bịnh nhân không có ngày nghỉ lễ. Những người làm việc vài giờ mỗi ngày
như tôi không có quyền chọn lựa. Dù lễ Tạ Ơn hay Giáng Sinh Sean cũng sắp xếp
thời khóa biểu làm việc của cậu thích hợp với giờ giấc của tôi. Khi tôi đẩy xe
đến dốc, Sean đã ngồi đó nghe nhạc và chờ tôi rồi. Một mình cậu đẩy xe qua dốc
và trở lại làm việc. Cậu không chê tôi yếu đuối. Khi hết việc, cậu qua phụ với
tôi đem thức ăn đến từng phòng. Cậu có chiếc cassette cỡ trung bình. Giờ giải
lao cậu mang ra nghe nhạc Rap và cùng ăn tối với tôi. Sean mở nhạc rất lớn. Tiếng
Mỹ của tôi ngày đó chỉ đủ để làm bài nhưng nghe và hiểu nhạc Rap là chuyện còn
xa. Tuy nhiên nghe riết cũng quen tai, không lấy làm khó chịu như những ngày đầu.
Vì làm trong nhà bếp nên chúng tôi được ăn tối miển phí nhưng là những món ăn
nhạt nhẽo dành cho người bịnh. Từ khi chơi với Sean, bữa ăn nào cũng thịnh soạn
vì cậu lục lọi khắp nơi để tìm thức ăn. Có khi cậu còn tự mở lò xào nấu món ăn
tự nhiên như ở nhà. Tôi không bao giờ dám làm chuyện đó. Sean không ăn một
mình. Có món gì ngon cậu cũng chia sớt với tôi.
Chúng tôi không biết gì nhiều về nhau. Sean rất ít nói về mình và có vẻ
cũng không muốn được hỏi về đời sống riêng tư của cậu. Khi tôi tò mò hỏi tới một
chuyện gì, Sean thường cười và bảo tôi điều tra giống như cảnh sát. Sean rất
ghét cảnh sát. Cậu dặn tôi, ngoại trừ biết chắc mình vi phạm, đừng bao giờ đưa
bằng lái xe cho cảnh sát coi mà hãy nói để quên ở nhà. Tôi cũng không kể lể gì
với Sean ngoài việc tôi là người tỵ nạn, đang đi học và cần tiền để sống cho đến
ngày ra trường. Tình bạn của chúng tôi là tình người, không có quan hệ nào
khác. Sean không bao giờ rủ tôi làm chuyện gì hay đi đâu xa ngoài khuôn viên bịnh
viện. Giờ nghỉ, tôi chỉ ngồi và nghe cậu nhái theo giọng anh chàng ca sĩ nhạc
Rap trong chiếc cassette cũ kỹ.
Một người đầu bếp da trắng thấy tôi gần gũi với Sean, kêu tôi ra dặn dò
phải thận trọng đừng chơi quá thân với những thanh niên da đen và nhất là đừng
cho chúng mượn tiền. Ông già đầu bếp da trắng có ý tốt với tôi. Ông thấy tôi, một
thanh niên da vàng duy nhất trong nhà bếp nên lo dùm tôi để khỏi bị dụ dỗ để
làm những chuyện phạm pháp. Tôi cám ơn lời khuyên của ông nhưng vẫn tiếp tục
làm bạn với Sean, không phải chỉ vì tôi cần người đẩy xe mà cần một tình bạn
chân thật để lấp vào khoảng trống tình cảm mênh mông của đời người tỵ nạn.
Một ngày nọ, Sean hỏi mượn tôi năm đô la để mua pin cho chiếc máy
cassette của cậu. Tôi chợt nhớ tới lời ông già đầu bếp dặn dò nhưng vẫn rút bóp
đưa cho cậu năm đô la. Số tiền quá nhỏ. Đừng nói chi năm đô la mà năm chục đô
la tôi cũng đưa cho Sean mà không thắc mắc gì. Hai đứa tôi đi bộ ra tiệm mua mấy
viên pin và ngồi bên ghế dài trước bịnh viện New England Deaconess tiếp tục
nghe nhạc Rap.
Thời gian ngắn sau đó, tôi không nhớ chắc là ngày nào, Sean chia tay tôi.
Cậu bảo vừa tìm ra công việc tốt hơn nên nghỉ làm ở bịnh viện New England
Deaconess. Cậu xin lỗi không thể giúp tôi tiếp tục đẩy xe nhưng đã nhờ một người
bạn gốc Haiti giúp khi tôi cần. Đêm cuối của Sean ở bịnh viện, chúng tôi đi bộ
ra đường và bắt tay từ giã nhau. Chúng tôi khác màu da, sắc tộc, văn hóa và
cũng chẳng biết gì về nơi ăn chỗ ở, việc gặp lại nhau là điều rất khó. Nhìn
bóng Sean mất hút cuối đường Brookline, tự nhiên tôi cảm thấy buồn. Tôi không
buồn vì thiếu người đẩy xe nhưng vì vừa xa một người bạn. Người đầu bếp da trắng
hỏi tôi Sean có thiếu nợ tôi không, tôi trả lời là không. Ông đầu bếp không tin
là Sean tìm được việc tốt nhưng phải bỏ trốn Boston vì lý do phạm pháp. Tôi hỏi
tại sao ông biết, ông già bảo, đó là chuyện thường xảy ra. Tôi không có đủ lý lẽ
để phản bác nhưng không tin Sean bỏ trốn Boston.
Khoảng hai tuần sau, trong khi tôi đang ngồi một mình trong giờ nghỉ giải
lao ở nhà bếp, Sean trở lại. Chúng tôi mừng rỡ bắt tay nhau và hỏi han công việc.
Sean thắc mắc người bạn Haiti của cậu có giúp tôi không. Tôi trả lời là có. Tôi
hồi hộp hỏi Sean tính trở lại bịnh viện làm hay sao, Sean bảo không, cậu chỉ trở
lại để trả tôi năm đô la cậu mượn hai tháng trước. Dĩ nhiên tôi còn nhớ nhưng
không quan tâm. Sean dúi vào tay tôi tờ bạc năm đô la. Để cậu không còn lo lắng
chuyện nợ nần, tôi cầm lấy. Sean thú nhận ngày nghỉ việc cậu không có tiền
nhưng không biết nói sao để khất nợ. Chúng tôi cùng cười. Sau đó Sean đi. Tôi bắt
tay từ giã nhưng không tiễn cậu ra đường như lần trước.
Từ đó đến nay, mấy chục năm chúng tôi chưa gặp lại nhau. Khu Sean ở là
khu băng đảng và gần như mỗi tuần đều có những vụ bắn giết xảy ra. Tôi thường để
ý tên người bị giết, bị bắt và bị tù nhưng không có tên Sean hay hình ảnh một
người nào đó giống Sean trên mặt báo. Tôi biết mình chỉ lo xa mà thôi vì trong
đáy lòng tôi, Sean, ngoại trừ một phút giây lầm lỡ, khó có thể lâm vào con đường
bắn giết hay tù đày vì bản chất của cậu là người rất thiện.
Tôi không tin có màu da tốt và màu xa dấu nhưng chỉ có con người tốt và
con người xấu. Điều kiện kinh tế, môi trường xã hội và cơ hội giáo dục đã làm
con người lớn lên theo nhiều ngã khác nhau. Nếu Thống đốc Deval Patrick của tiểu
bang Massachusetts này không may mắn được học bổng của Milton Academy để thoát
ra khỏi vùng Nam Chicago đầy tội ác vào năm lớp tám mà tiếp tục lớn lên ở đó
thì ngày nay chưa chắc đã có một thống đốc da đen đầu tiên của nước Mỹ mà có thể
đã bị bắn, bị tù vì phạm pháp như hàng ngàn thanh thiếu niên da đen khác vùng
Nam Chicago.
Một người có tâm hồn đẹp và lòng nhân ái rộng như Sean nếu có cơ hội học
hành, thoát ra khỏi môi trường Roxbury sớm biết đâu đã gặp nhiều thành công lớn
trong xã hội.
Khi nghĩ đến người thân thiết chúng ta thường nghĩ đến những người đã gắn
bó với mình một phần đời không thể nào quên, những tri kỷ, những người bạn thưở
hai mươi với tâm hồn cháy bỏng hay những người đã từng sống chết có nhau nhưng
thường không để ý đến những người đã đến và đi trong khoảnh khắc. Không phải những
người chúng ta quen mười năm, hai mươi năm mới gọi là bạn và những người sống với
nhau chỉ một hay hai ngày không là bạn.
Dòng đời như sợi tơ dài, những người bạn đã đến và đi nhiều khi
không để lại một dấu tích gì nhưng thiếu họ sợi tơ có thể đã đứt đi một quãng.
Họ là những chiếc gút nối lại những hoàn cảnh khó khăn, chiếc cầu bắt qua những
chặng thăng trầm và chúng ta phải luôn tri ân họ như cành hoa biết cám ơn những
giọt sương mai nhỏ xuống cuộc đời mình.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment