Nguyễn Công Lượng
(Góp nhặt)
Ðọc “Vọng Phu Thạch” của Vương Kiến đời nhà
Ðường bên Trung Hoa:
Vọng Phu Xứ
Giang du du
Hóa vi thạch
Bất hồi đầu
Sơn đầu nhật nhật phong
hòa vũ
Hành nhân quy lai thạch
ứng ngữ
Nghĩa là :
Ở nơi trông chồng
Lòng sông mênh mông
Hóa thân làm đá
Ðầu không ngoảnh trông
Người đi có lại đá mong
ngỏ lời.
Hình dáng Vọng Phu Thạch
ra sao và sự tích như thế
nào thật chưa rõ được.
Nhưng cái mênh mông của dòng
Trường Giang, cái hùng vĩ
chớn chở ở Bắc Sơn của Vũ Xương,
Trung quốc và cái lòng
chung thủy của người thiếu phụ qua áng
thơ trên đã làm cho bao
văn nhân mặc khách tốn nhiều giấy
mực để tán tụng qua những
bài thơ họa lại hoặc dịch sang Việt
ngữ, mỗi mỗi tùy theo cảm
khái của từng người:
Chàng đi thiếp đứng trông
chờ
Bên sông nước vẫn hững hờ
chảy xuôi
Thân hóa đá, dạ khôn
nguôi
Gió mưa năm tháng trên
đồi quạnh hiu
Người về đá tỏ đôi điều.
(Nguyễn Thị Dung)
Ở nơi nàng đứng trông
chồng
Dưới chân hờ hững một
giòng sông trôi
Chờ hoài thành đá mồ côi
Ðầu không quay lại để đời
tiếc thương
Mưa trên đỉnh núi đoạn
trường
Người đi về, đá mừng
thương thốt lời
(Ngọc Sương)
Trường giang tăng lưu
thủy
Thiếu phụ sầu vọng phu
Tuế nguyệt hóa vi thạch
Thủy chung truyền thiên
thu
Ở Trung Hoa lại có một
hòn Vọng Phu Thạch nữa ở Doãn Tùng Cương bên bờ
biển Ðông, gần Sơn Phòng và Sơn Cốc, nên ở một tác phẩm
có tên Hòn Vọng Phu do Ái Cầm phóng tác từ cuốn tiểu
thuyết Vọng Phu Thạch của Quỳnh Dao thì sự tích được ghi như
sau:
“Ở phía Bắc Trung Hoa,
giữa những rặng đồi núi chập chùng, ẩn hiện rõ nét
hình thù người mẹ bồng con và dân giả bao nhiêu năm qua đều
ngậm ngùi thương nhớ đến câu chuyện thật cảm động : Có một
thiếu nữ xinh đẹp vừa lấy chồng chưa tròn một năm thì người
chồng phải xa lìa vợ để lên đường chinh chiến. Bao nhiêu năm đợi
chờ mùa lá rụng ôm con mong ngóng tin chồng về. Nàng không
quản ngại gió mưa sương tuyết phủ phàng. Cho đến một ngày
kia mẹ con người chinh phụ không còn chịu đựng được nữa đã
thoát hồn vào cõi hư vô. Trời đã
chứng giám tấm lòng trung
trinh của nàng. Thân xác mẹ con
nàng đã hóa thành tượng
đá và đã đi vào lịch sử đi vào lòng
kính trọng ngưỡng phục
của thế gian. Và từ đó hình ảnh của mẹ
con nàng trở thành đá
vọng phu....”
Ðó là chuyện bên Tàu, tất
cả đều na ná như nhau. Còn
ở Việt Nam ta cũng có Ðá
Vọng Phu, một ở tỉnh Lạng Sơn (Bắc
Việt), một ở tỉnh Bình
Ðịnh (Trung Việt).
Ở Lạng Sơn đá đứng trên
núi, hình dáng xa trông giống
như một người đàn bà ôm
con đứng chờ chồng, gần Ðồng Ðăng
và động Tam Thanh, nên ca
dao có câu :
Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa
Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh
thành ra em...
Chuyện cũ lưu truyền rằng
xưa có nàng Tô Thị có
chồng là một học trò
nghèo, họ Ðậu. Vợ chồng đang sống trong
cảnh thanh bần và vừa
sanh một đứa con trai nhỏ. Bỗng đâu họ
Ðậu bị bắt đi lính thú.
Thời đó hạn kỳ thi hành hành nghĩa vụ
lính thú (giống như thi
hành quân dịch hay thi hành nghĩa vụ
quân sự bây giờ) có lẽ là
ba năm, nên mới có bài trấn thủ lưu
đồn:
Ba năm trấn thủ lưu đồn.
Ngày thì canh điếm tối
dồn việc quan.
Chém tre đẳng gỗ trên
ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn
cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng
mai
Những giang cùng nứa lấy
ai bạn cùng
Nước suối trong con cá nó
vẫy vùng...
Nhưng ngày qua tháng lại,
ba năm rồi lại ba năm, chàng
đã không trở về mà tin
tức cũng biền biệt. Phần nhớ thương,
phần lo lắng cho chồng,
Tô Thị bồng con lên núi đứng trông
chồng... Tình được un đúc
với nắng sớm mưa chiều phong ba
bão táp lâu ngày nàng hóa
thành đá... Núi chở hình người đá
nên cũng mang luôn tên đá
là núi Vọng Phu hay là núi Tô Thị.
Dân địa phương gọi là Ðá
Vọng Phu.
Thi hào Nguyễn Du cũng có
bài vịnh Vọng Phu Thạch :
Thạch da ? nhân da ? Bỉ
hà nhân ?
Ðộc lập sơn đầu thiên
bách xuân
Vạn kiếp yểu vô vân vũ
mộng
Nhất trinh lưu đắc cổ kim
thân
Lệ ngân bất tuyệt tam thu
võ
Ðài triện trường minh
nhất đoạn văn
Tứ vọng liên sơn diếu vô
tế
Ðộc giao nhi nữ thiện di
luân
Quách Tấn dịch :
Ðá hay người? ấy ai người
ấy ?
Ðầu non cao trải mấy
nghìn xuân!
Giấc không bén mộng vu
thần
Tấm thân kim cổ trong
ngần gương trinh
Mưa ba thu lệ tình lai
láng
Ngàn rêu in một áng sầu
văn
Non xanh líp mắt xa gần
Gánh luân thường để riêng
phần thuyền quyên
Duy Phi dịch
Ai đó, người chăng, hay
đá chăng
Ðầu non một bóng mấy ngàn
năm
Mây mưa, muôn thuở tàn
cơn mộng
Trinh tiết một đời vẹn
tấm thân
Mưa xối ba thu không dứt
lệ
Rêu xăm năm tháng đá
thành văn
Lặng nhìn bốn phía mênh
mông núi
Sao để riêng nàng giữ đạo
luân
Ðặng Lý Khê cũng có một
bài vịnh Núi Vọng Phu ở
Lạng Sơn như sau :
Ngọn núi như in chiếc
bóng lồng,
Ấy nàng Tô Thị đứng trông
chồng.
Xa xôi dặm liễu chàng đâu
tá ?
Sừng sững đầu non thiếp
nhớ mong.
Chỉ núi thề non lòng
chẳng chuyển,
Tắm mưa gội gió tiết càng
trong.
Núi sao lại dứng như người
nhỉ
Bia miệng nghìn thu
chuyện có không ?
Còn ở Bình Ðịnh cũng có
Ðá Vọng Phu nằm trên dãy
Núi Bà, thuộc địa phận
thôn Chánh Oai, quận Phù Cát. Khách
muốn đến viếng Ðá Vọng
Phu thì có hai con đường : Ðường bộ
thì đi theo đường Chùa
Ông Núi, đến Cách Thử rồi quẹo về
hướng Bắc, hoặc đến Ðề Gi
rồi đi vào Nam. Ðường thủy thì
vượt qua đầm Thị Nại đến
Cách Thử, mướn ghe ra Chánh Oai.
Nếu muốn thấy hình người
đá được rõ ràng và để lòng chúng ta
có thể dể giao cảm cùng
“lòng người tháng đợi năm chờ” trước
cảnh trời cao biển rộng
và mở tầm mắt với non sông thì nên đi
đường biển.
Ngoài khơi trông vào,
chúng ta sẽ thấy hai hòn đá xanh,
một cao một thấp, đứng
trên một ngọn núi cao, giống hình một
người đàn bà dắt đứa con,
mặt đăm đăm nhìn về một nơi xa
xăm ngoài biển cả, như
trông như đợi.
Tương truyền ngày xưa ở
đạo Quãng Nam - (nhưng
chắc chắn là sau năm
1470, vì năm nầy vua Lê Thánh Tôn
đánh chiếm Ðồ Bàn, bắt
được vua Chiêm là Trà Toàn và biên
giới Ðại Việt mới mở rộng
tới núi Thạch Bi (Ðá Bia) nằm giữa
Phú Yên và Khánh Hòa ngày
nay. Ðạo Quãng Nam chạy dài từ
đèo Hải Vân cũng từ đó
được mở rộng cho đến tận Phú Yên.
Và chính là lúc người
Việt vào định cư ở miền đất mới nầy)-
có hai vợ chồng người
chài lưới sanh hạ được một trai một gái.
Người con trai là anh và
người con gái là em. Một hôm hai anh
em rủ nhau ra sau vườn
đốn mía, chẳng may khi người anh chặt
mía con dao sút cán văng
trúng đầu cô em, máu ra lai láng. Cô
em ngã lăng xuống đất bất
tỉnh. Người anh sợ quá tìm đường
chạy trốn. Vợ chồng người
chài lưới hay tin chạy ra đưa con gái
vào nhà cứu chữa. Vết
thương người em đã lành mà người anh
vẫn không thấy trở về.
Hai vợ chồng lão chài thuê người tìm
kiếm nhưng không tìm ra
manh mối. Ngày qua ngày hai ông bà
quá đổi ưu sầu vì nhớ
thương con, lại tuổi cao sức yếu nên nối
nhau qua đời. Người con
gái bây giờ mới có sáu tuổi đã bị họ
hàng đem bán cho một
người lái buôn ở khác vùng. Cuộc đời
cô gái từ đó không được ở
yên một nơi nào, mãi đến lúc quá
tuổi xuân lại trôi dạt
đến vùng Chánh Oai, Phù Cát (ngày nay)
và kết duyên cùng một
chàng ngư phủ. Vợ chồng đến trú ngụ
tại vùng Núi Bà, và sanh
được một đứa con xinh xắn . Hằng
ngày vợ ở nhà lo phần nội
trợ và nuôi con, còn chồng thì dong
thuyền ra đầm Nước Ngọt,
cửa Ðề Gi, xuống Vũng Tô, Vũng
Nồm , hoặc vô đầm Thị
Nại... để đánh bắt cá tôm đem đổi lấy
bát cơm thơm, tấm áo
sạch. Cảnh thanh bần nhưng tình vẫn nở
hoa.
Một sáng mùa Xuân, nắng
vàng lên rực rỡ, sóng biển nỗi lên
theo những cơn gió nồm.
Ðứa con ngồi chơi trước sân. Chồng
ngồi vạch tóc bắt chấy
cho vợ, cảnh trông hoa gấm, tình đượm
lửa hương. Những ngón tay
của chồng trên mái tóc xanh của vợ
như con tàu lướt sóng
trên biển khơi... Chợt thấy trên đầu vợ có
vệt sẹo dài, chồng liền
dừng tay hỏi nguồn cơn. Vợ ngậm ngùi
kể lại chuyện đốn mía hồi
ấu thơ và cuộc đời nổi trôi của mình.
Người chồng ngồi im lặng,
mặt biến sắc với bao nỗi xót đau
trong lòng. Vì người
chồng chính là người anh ruột năm xưa đã
tạo nên vết thương trên
đầu em gái tuy nay đã lành, nhưng vết
thương trong lòng mình
thì vẫn còn rĩ máu dù đã ăn năn hối lỗi
suốt mấy chục năm qua.
Nay chàng lại gây ra một lầm lỗi khác
không thể tha thứ nên
lòng chàng như thiêu chư đốt, đắng cay
ngậm ngùi.
Sau khi sắp xếp lại việc
nhà đâu vào đó, người chồng
bão vợ là sẽ vào Thị Nại
đánh cá nên phải vài ba hôm mới về.
Nhưng vài ba hôm trôi
qua, rồi vài ba tháng trôi qua thuyền
chồng vẫn không về bến
cũ. Vợ ở nhà nóng lòng chờ chồng,
đứng ngồi không yên, bèn
bồng con lên núi đứng trông. Nhưng
càng trông càng chẳng
thấy, chỉ thấy biển trời mây nước một
màu xanh. Nàng cùng con ở
lì trên núi bỏ ăn bỏ uống. Ðến một
ngày cảm động thấu trời
xanh, trời liền cho nàng cùng con hóa
Từ đó dân làng gọi là Ðá
Vọng Phu.
(Theo Quách Tấn : Non
Nước Bình Định)
Chuyện tuy hoang đường
nhưng chứa nhiều ý nghĩa :
Tình người, đạo lý, lòng
thủy chung...gương sáng đó sừng sững
giữa trời để thế nhân
cùng soi chung. Nhiều văn nhân qua đây
thường có thơ cảm đề.
Trường Xuyên có hai luật:
1. Chồng đi biệt tích tự
bao giờ,
Một góc trời Nam một dạ
chờ.
Lụy nhớ mưa ngàn tuôn
nượp nượp,
Tóc thề mây núi bạc phơ
phơ !
Non chồng nghĩa nặng cao
vòi vọi,
Nước vướng tình sâu chảy
lững lờ.
Dâu biển đã bao đời kiếp
trải,
Lòng son một tấm mãi trơ
trơ.
2. Người đã không về tin
cũng không,
Ðầu non dắt trẻ đứng
trông chồng.
Nước mây quạnh vắng tròng
khô lệ,
Mưa nắng phôi pha má lợt
hồng.
Lời thệ vững ghi lòng sắt
đá,
Khối tình riêng nặng gánh
non sông.
Nỗi niềm ai biết, không
ai biết,
Gương nguyệt nghìn thu
rạng biển đông.
Cũng có nhiều nơi với đá núi
đầu non, xa trông cũng
phảng phất hình dáng
người đứng đợi, mỗi nơi có một sự tích
riêng nửa hư nửa thật đầy
mộng đầy thơ (xin một dịp khác sẽ
trình bày). Nhiều người
lầm tưởng là đá Vọng Phu nhưng thật
sự không phải.
Như ở Phú Yên gần đèo Cả
có hòn Ðá Bia (Thạch Bi)
ghi dấu vua Lê Thánh Tông
mở nước năm 1470. Ðịa phương có
ca dao:
Chiều chiều mây phủ Ðá
Bia
Ðá Bia mây phủ chị kia
mất chồng.
Mất chồng đây chẳng có
lo,
Sợ ai mất vợ nằm co một
mình.
Còn ở Khánh Dương (tục
gọi là Ma Rạc, do tiếng M.
Drack của người Thượng mà
ra), thuộc tỉnh Khánh Hòa, có hòn
Mẩu Tử tức Mẹ Bồng Con.
Thi Nại Thị có thơ vịnh rằng:
Nước non vẫn nước non nhà
Tiếng rằng Ma Rạc vẫn là
nước non
Nơi đây nghĩa Mẹ tình Con
Dù cho sông cạn đá mòn
chẳng nao.
Non cao nghĩa mẹ càng
cao,
Tình con mạch suối không
đào mà sâu.
Cuộc đời bể bể dâu dâu,
Tình Con nghĩa Mẹ nghìn
thu vẹn toàn.
Nhạc sĩ Lê Thương viết ba
ca khúc có tựa đề Hòn Vọng
Phu 1, 2 , và 3 với những
lời ca thật ai oán, thật ngậm ngùi, mà
cũng thật hào hùng:
Nơi phía Nam ... giữa núi
... mờ
Ai bế con ... mãi ...
đứng chờ
Như nước non ... xưa đến
... giờ
Núi ... đá kinh hoàng
nhắc câu sấm thề
Hỡi người chinh phu ...
Anh hùng non sông
Trao người con quý ...
trao người trông nôm
Thiếp xin ... lỗi ... thề
Chàng dạo bước ... ngoài sườn
non
Tìm người đứng cô đơn
đang ngóng đợi chồng về
Vượt Hoành Sơn ... vòng
thành núi
Mong tới nơi cô thôn ước
thề
Tạ từ đất ... miền Ðồng
Nai
Lời hẹn hứa tương lai
đang chúc mừng chàng về
Chờ nhìn con ... chờ
người đón
Bao nét xưa ước mong sẽ
còn
Núi đá thu rêu đã lấp mờ
bao nghìn xưa
Thấy đứa con xanh ngắt
tới hồn còn trong đó
Cầm chiếc gươm thân phụ
di truyền
Chàng bế con trao lại
gươm liền
Rồi chỉ vào sơn hà biến
cố
Trao nó đi gây lại cơ đồ
Trao nó đi ... gây lại
... cơ ... đồ
Chiếc báu gươm
Chinh khách đã trao cho
thằng con
Chí khí cao đã nối mãi
còn tại non nước
Chàng đã ghi trang sử
xanh đời
Một mối duyên chung vạn
kiếp người
Từ nghìn sau bên đồi phơi
đá
Dân chúng đem ... ca tụng
duyên ... bà
Một nghìn năm vừa mới
thoáng qua
Nước non nao lòng nức nở
khóc bà
Nhà văn Quách Tấn có nhận
xét : “Như thế là tình người
nghĩa phụ, Nam cũng như
Bắc, Việt cũng như Hoa, muôn trước
nghìn sau, đều được non
cao tạc vững. Mây trôi nước chảy
quạch quẻ đìu hiu”
Những hòn Vọng Phu, hòn
Mẩu tử, Phụ tử, Ðá Bia...
ngày nay là những di tích
lịch sử mà chúng ta cần trân quý,
chính quyền phải có bổn
phận bảo tồn gìn giữ. Những danh lam
thắng cảnh đó phải được
mọi người quan lâm chiêm ngưỡng.
Thế nhưng những bản tin
mới đây vừa nhận được : Hòn Phụ Tử
ở Hà Tiên đã bị ngã một,
đang nằm chình ình trong sóng nước.
Còn Hòn Vọng Phu ở Lạng
Sơn đã bị chính quyền đập bỏ để
dựng lại một hòn mới.
Nghe mà đau lòng!
Trở lại những ca khúc Hòn
Vọng Phu của nhạc sĩ Lê
Thương, có lẽ nó ra đời
đã trên nửa thế kỷ rồi, lúc đó chúng ta
nghe nhiều câu như rất mơ
hồ, nhưng nay thì người ta đã hiểu
những câu hát đó như
những lời sấm truyền:
Một bầy chim xa xứ bỗng
nhiên vô tình
Bảo rằng tới lượt sơn hà
chiến chinh ...
Non sông xao xuyến tấc
lòng
Dân gian ... thoáng qua
mấy kền
Ách tham ô quan quyền
Vì hồn thanh kiếm còn
chưa linh
Nên khiến sắc son bẽ bàng
Mắc nợ còn chưa đền
Có con chim nhỏ bé dám ca
câu sấm thề
Cuối năm ... năm Mậu Tý
Tướng quân đem kiếm về
...
Ðời mong đợi thằng con
Ngày nào nó xuống núi non
Xuất chinh với cả mối thù
Nối lại giống nòi chinh
phu
Bầy chim xa xứ là ai? năm
Mậu Tý là năm nào?
Ðất nước ta ngày nay đang
bị quan quyền tham ô thống
trị.
Tướng quân là những ai?
Sao không đem kiếm về ? Chỉ thấy
một loại tướng quân vào
ra Việt Nam,phát ngôn bừa bãi, làm
buồn lòng những nhà đấu
tranh cho Tự Do Dân Chủ và Nhân
Quyền !
Thế tại sao bầy chim xa
xứ lại vô tình? Vì hồn thanh
kiếm còn chưa linh?! Hay
vì, như một câu ngạn ngữ của người
Champa: “Khi người ta đã
ăn no, người ta thường quên hết”?!
Vọng Phu Thạch, chuyện nào
nghe cũng bi hùng, đọc
thơ Vọng Phu Thạch, nghe
như vang vang lời nguyền của đá:
Ðã đem máu nóng rèn gan,
Quyết đưa năm sắc mây
ngàn về đây
(Quách
Tấn)
Làm cho người ta phải
nghĩ đến chuyện nước non.
Làm cho lòng người phải
dậy lên mối u hoài:
Bóng nhạn trời thu tê tái
ruột,
Tiếng quyên đêm hạ vẩn vơ
hồn....
(Quách Tấn)
• Nguyễn Công Lượng
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Non Nước Bình Ðịnh,
Quách Tấn, Nam Cường xuất
bản, 1967.
- 249 bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, Duy Phi, 2006
- Ðường Thi, Trần Trọng
Kim,
- Việt Nam Sử Lược, Trần
Trọng Kim
- Docsu14.blogspot.com
Xuân Ðinh Hợi 2007
No comments:
Post a Comment