Tình Đẹp Như Mơ
Tình Vẫn Như
Thơ…
Tình Vẫn Như Mơ…
( Chuyện hoàn toàn hư cấu, nếu có sự trùng hợp
xin được hiểu là ngoài ý muốn của tác giả)
* Lê Nguyễn
Trên chiếc xe đang chạy
tới địa điểm tham dự buổi hợp mặt của các cựu học sinh tại California, mọi
người đang nhắc lại những chuyện ngày xưa khi còn sống ở quê nhà. Bỗng Luân
quay sang phía mẹ Thủy và nói :
- Đáng lẽ hồi đó con phải sớm xin hai bác cưới
Thủy. Rồi như không đợi mẹ Thủy trả lời chàng nói tiếp :
- Bác biết không, mùa hè năm đó con vừa đậu
xong trung học đệ nhất cấp, cha con đưa con vào Quy Nhơn để học thêm Anh
Văn. Hai cha con lên chuyến tàu chợ ở ga Bồng Sơn. Ngồi xuống ghế xong mới thấy
người ngồi trước mặt là một cô gái trạc bằng tuổi con. Trông cô ta thật thùy
mị, dịu hiền với nét đẹp thơ ngây của một nữ sinh nơi thành thị. Con chỉ biết
len lén nhìn…Và sau hơn hai tiếng đồng hồ thì tàu đến ga cuối cùng là Quy Nhơn,
mọi người đều rời tàu, con nhìn cô ta xuống ga trong niềm luyến tiếc, và tự hỏi
không biết có bao giờ còn dịp gặp lại hay không. Đứng trên sân ga cha con nói,
mình nghỉ một lát rồi cha vào thăm ông bạn trước khi đến nhà bác Lộc, nơi gởi
con ở trọ học hè. Ông bạn mà cha con muốn viếng té ra là bác trai. Hai cha con
được bác trai tiếp trong thân tình. Và người mang nước trà ra đãi khách té ra
là cô gái mà con vừa gặp trên tàu, là Thủy đó bác…
-
Thế sao hồi đó cậu không
chịu đi hỏi nó ? Mẹ Thủy hỏi.
- Thưa bác cũng tại hoàn cảnh chiến tranh mà. Gia
đình con phải bỏ ruộng vườn chạy giặc, nhà cửa nay dời mai đổi, con thì tay
trắng chưa có sự nghiệp gì, chỉ mong sau khi có chút sự nghiệp gì và Thủy còn
đợi được thì con mới nghĩ đến chuyện lập gia đình. Luân đáp.
Xe cũng vừa đậu vào
“parking lot” nên câu chuyện đành bỏ dở.
x
Về lại Houston, câu chuyện ngày xưa mà Luân gợi lại khi nói chuyện với mẹ nàng
trên xe, làm Thủy cứ miên man nghĩ ngợi, như một cuộn phim dĩ vãng quay về. Hồi
đó chính quyền quốc gia vừa tiếp thu tỉnh Bình Định sau 10 năm kháng
chiến, gia đình Thủy cũng như đồng bào toàn tỉnh đều có được một cuộc
sống tương đối yên vui trong thanh bình. Cha Thủy là một công chức đang làm
việc tại Quy Nhơn, còn mẹ nàng thì quán xuyến việc gia đình tại quê nhà
ở Tam Quan, gia đình Thủy được xem như một bổn mà hai quê. Những ngày cuối tuần
Thủy thường được mẹ cho đi Quy Nhơn thăm cha và mang thức ăn mà mẹ đã làm sẵn
vào cho cha nàng. Mùa hè năm đó Thủy vừa tròn 16 tuổi, học xong lớp đệ ngũ, gặp
Luân trên chuyến tàu chợ rồi sau đó gặp lại Luân tại nhà, mà sau nầy quen nhau
Luân cứ nhắc lại như một định mệnh an bài cho hai đứa. Thật tình mà nói
lúc đó Thủy chỉ xem cuộc gặp gỡ như một chuyện tình cờ, mặc dầu lúc gặp Luân
trên tàu nàng có một cảm giác khác lạ vì lần đầu tiên có người khác phái
cùng trang lứa chú ý đến mình một cách không bình thường, trong cái nhìn
của chàng có chút gì say đắm, làm nàng thấy ngượng, ngượng một cách dể chịu, và
khi nàng bưng nước ra mời khách thì nàng rất ngạc nhiên, và dường như trực giác
cho nàng biết rằng nàng có một chút ràng buộc gì với anh chàng trẻ tuổi nầy.
Rồi
một ngày giáp Tết như mọi năm, năm đó Luân cũng được cha chàng sai mang một
nhành mai thật đẹp từ Bồng Sơn ra tặng gia đình nàng, cũng là lúc Thủy được
nghỉ học vào dịp Tết. Nàng đang loay hoay giúp mẹ làm những món bánh, mứt chuẩn
bị cho ngày Tết thì Luân đến. Lần nầy gặp nhau Thủy thấy Luân rất hoạt
bát, nói năng rất tự nhiên, qua những lời đối đáp thăm hỏi giữa chàng và mẹ
nàng. Rồi mẹ nàng lại giới thiệu chàng với nàng: “Đây là cậu Luân con anh
Năm ở Bồng Sơn, năm nào anh Năm cũng sai cậu Luân mang ra tặng nhà mình một
cành mai, con đi học xa nên chưa có dịp gặp nhau, thôi hai đứa nói chuyện với
nhau, để mẹ xuống bếp làm cho xong công việc, Luân ở lại ăn cơm trưa với bác và
em Thủy rồi hãy về”.
Còn
lại hai người trong phòng khách, Luân như sợ mất một cơ hội, chàng vội nói:
- Thủy nè, hôm hè gặp Thủy trên tàu sau đó vào thăm
bác trai lại gặp Thủy đã cho tôi một sự ngạc nhiên kỳ lạ. Bây giờ gặp lại Thủy
ở đây tôi có cảm giác khác với những năm trước tôi ra đây, vì hình như nhà nầy
có một mãnh lực gì đó thu hút tôi vậy.
- Nói thực lòng không đó, không khéo rồi ôm hận
nghe chưa. Thủy đáp lại.
Luân hơi chột dạ, vì
chẳng ngờ một cô gái trông dịu dàng, nhút nhát, thơ ngây như Thủy lại có thể
nói được một câu già giặn và dày dạn như thế nầy. Chàng hơi bối rối nhưng tiếp
lời ngay:
- Tôi nói thực tình mà, không phải là lời tán tỉnh
đâu, vì lâu nay tôi xem hai bác như cha mẹ tôi vậy, xem nhà nầy như nhà mình mà
không biết rằng trong ngôi nhà nầy có một người đẹp thì thực là vô tâm. Thủy
không thấy bác gái khi nãy nói gì sao. Tôi thành thật xin lỗi Thủy.
Rồi
hai người trao đổi với nhau những chuyện không đâu, thời tiết, khí hậu, và
những chuyện vui buồn nơi cửa lớp sân trường, đêm văn nghệ cuối năm vừa qua của
trường mình vui như thế nào. . .
Những tháng năm tiếp
theo, Thủy thường nhận những lá thư của Luân với những lời thăm hỏi ân
cần như một người thân trong gia đình chứ tuyệt nhiên không có một câu nào tán
tỉnh nàng. Vào những dịp lễ lớn hay nghỉ hè, Luân thường báo trước cho Thủy
biết chàng sẽ ra thăm Thủy và gia đình nàng, trong thư chàng cũng mong được
Thủy hướng dẫn đi xem những danh lam thắng cảnh của đất Tam Quan. Rồi Thủy đã
cùng Luân đi viếng khu “Mã A Sầu”, Hang Dơi nơi bãi biển Trường Xuân, Cấm An
Sơn, Cửa Thiện Chánh, và Nhà thờ Gia Hựu … Kỷ niệm êm đềm làm Thủy nhớ mãi là
dịp họ viếng nhà thờ Gia Hựu. Một ngôi giáo đường kiến trúc theo kiểu tây
phương cao đẹp, nằm trên một khu đất rộng có hàng tre là-ngà vây quanh,
nhìn xuống một cánh đồng lúa chín vàng, xa xa là rừng dừa xanh, sau lưng là núi
non trùng điệp một màu xám ngắt của dãy Trường Sơn hùng vĩ uy nghi. Nơi đây
ngày xưa có trường trung học Đặng Đức Tuấn. Vừa đi Luân hát khe khẻ bài Nắng
Chiều rồi đến đoạn cuối chàng hát lớn và đổi lời một chút: “Anh nhớ xót xa
dưới tre là ngà. Gợn buồn nhìn em, anh nói yêu em. Mây lướt thướt trôi khi nắng
vương đồi. Nhìn em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi…”. Luân dẫn giải:
Thủy biết không, đây là quê hương của bài Nắng Chiều khi tác giả của nó, nhạc
sĩ Lê Trọng Nguyễn đang làm Thư Ký của trường Đặng Đức Tuấn, ông đã sáng tác ra
bài hát nầy. Không biết mối tình của ông với ai và khi nào mà thật là thơ mộng
nhưng sao buồn quá, cái cảnh “về qua sân vắng, về nương dâu úa, chân bước
không hồn, nhớ câu thề tim tái tê, duyên ghé về đâu, giọng hát câu hò thôi hết
đưa, bóng yêu kiều biết đâu mà tìm…” thì thật là não nuột, thê
lương quá chừng. Lạy chúa tôi! xin đừng để cho những cuộc tình duyên phải
thương lỡ vỡ xảy ra trên cõi đời nầy nữa… Luân nói như là một lời cầu xin cho
chính mình. Bỗng Luân nắm tay Thủy, kéo Thủy đứng đối diện, nâng nhẹ hai tay
nàng và nói như vừa đủ nghe: “Thủy,Anh yêu em”. Thủy thật bất ngờ, không
kịp phản ứng như thế nào, nhưng một cảm giác lâng lâng khó tả đang chạy khắp
người nàng. Nàng đứng bất động và đón nhận một nụ hôn đầu đời. Họ đã yêu nhau…
x
Chín năm sống thanh bình
dưới thời đệ nhất cọng hòa rồi cũng qua nhanh. Sau khi anh em tổng thống Ngô
Đình Diệm bị các tướng lãnh giết chết thì Miền Nam xem như sụp đổ. Cộng quân đã
gia tăng hoạt động, cảnh chiến tranh phủ tràn khắp nơi, khủng bố, ám sát, pháo
kích, người chết xảy ra hàng ngày. Những người có liên quan đến phía quốc gia
đều phải dời về thành phố cư trú. Người dân Miền Nam phải sống cảnh một cổ hai
tròng. Gia đình nàng dời về Sài Gòn, cha nàng xin nghỉ việc làm công chức
và chuyển sang ngành vận tải tư, mở công ty chuyên chở hàng hóa từ Sài Gòn về
các tỉnh và ngược lại. Gia đình Luân dời về Quy Nhơn và Luân vào Trường Cường
Để học hết năm Đệ Nhất để cho xong bậc trung học. Hồi đó tương lai của thanh
niên có bằng cấp Tú Tái chỉ có hai con đường rộng mở, hoặc là được động viên
hay là tự nguyện vào các trường võ bị đào tạo sĩ quan, hoặc lêu bêu ở các
trường Luật khoa, Văn Khoa, Khoa Học… để chờ những kỳ thi tuyển hằng năm vào
các trường đại học chuyên nghiệp ở Sài Gòn như Sư Phạm, Kỹ Sư Phú Thọ, Y khoa,
Dược Khoa, Nông Lâm Súc, Quốc Gia Hành Chánh… Luân ghi danh học Luật được một
năm thì chàng thi đậu vào trường Quốc Gia Hành Chánh. Đây là cơ may
để chàng có dịp gần gũi với Thủy vì chàng và nàng được cùng sống tại Thủ Đô,
nhưng cái cớ mà chàng thường đến thăm Thủy ít nhất mỗi tháng một lần là
cha Luân thường gởi tiền vào cho chàng đều qua những chuyến xe tải của công ty
cha Thủy. Luân và Thủy lại có dịp gần nhau hơn qua những cuộc đi picnic cuối
tuần khi thì ở Thảo Cầm Viên, lúc thì lên những vườn cây ở miệt Lái Thiêu, Thủ
Đức, Biên Hòa… Có lúc Thủy và Luân cũng có bàn đến chuyện hôn nhân, nàng
muốn làm đám cưới cho xong, nàng sẽ ở với cha mẹ nàng, còn chàng muốn bay nhảy
đến những phương trời viễn mộng nào cho thỏa chí nam nhi đều cũng được. Nhưng
Luân nhất mực cho rằng chàng không thể chịu đựng nổi cái cảnh vợ chồng phải
sống xa nhau kẻ nhớ người trông, rồi đùng một cái, một trường hợp đau đớn nào
đó xảy ra, người ra đi thì không nói làm chi chứ kẻ ở lại thì vô vàn đau khổ dở
dang cả một đời. Chàng sẽ nói đến chuyện lập gia đình khi biết rằng
mình đã ổn định được cuộc sống.
Phải nói Luân chiếm được cảm tình của cha mẹ Thủy
nhờ ở hai gia đình quen nhau từ trước nhưng phần lớn cũng nhờ vào tư cách và
tài năng của chàng. Những cuộc trà dư tửu hậu giữa những ông bà già Bình Định
xa quê, đang tạm sống tại sài Gòn, trong thời buổi chiến tranh ly loạn thường
là những chuyện chính trị, tình hình chiến trận, trên trời dưới đất, đông tây
kim cổ không thiếu chuyện gì. Chuyện đánh giá về tương lai của những thanh niên
trẻ của tỉnh nhà cũng không thể thiếu, con ông nầy vừa thi đậu vào đại
học, con bà kia vừa mới tốt nghiệp dược khoa, y khoa; thằng đó xem thế mà giỏi,
thằng kia coi vậy chứ chẳng ra gì…Luân vẫn thường được các ông bà đề cập
đến trong niềm tin tưởng và tự hào của quê hương Bình Định. Nên trong nhiều
buổi trà đàm Luân cũng được gọi đến dự phần góp chuyện. Một hôm trong bữa cơm
tối gia đình, cha Thủy nói như để một mình ông nghe: thằng nhỏ nó nói có
khi cũng đúng. Mẹ Thủy hỏi: ông nói thằng nhỏ nào nói cái gì mà đúng với không
đúng. Cha Thủy đáp, thằng Luân đó chớ ai, nó mới vào trường Hành Chánh có mấy
năm, ở đó người ta đào tạo thế nào mà nó có lối lý luận rất vững chắc, sâu sắc
và chặt chẽ, mà dường như còn thấy xa trông rộng là đàng khác. Thủy lại chen
vào: Nhưng ảnh nói thế nào mà cha khen dữ vậy? Cha Thủy từ từ nói: Trước
hết những người già như cha đây mà có khi bị bọn báo chí nó làm rối tung không
biết được hư thực của sự việc như thế nào, Hôm qua mấy cô chú bàn cãi về cuộc
chiến tranh Việt Nam, người thì cho rằng đây là cuộc nội chiến, người lại gọi
đây là cuộc chiến tranh ý thức hệ, có người lại cho rằng đây là cuộc
chiến tranh ủy nhiệm… Thằng Luân thì cho rằng tất cả những lập luận đó đều mằm
trong sự mê hoặc qua sự tuyên truyền của Cộng Sản, vì mục đích của Cộng Sản là
muốn dành chính nghĩa để tranh thủ nhân tâm mà thôi, chứ thật ra đây chỉ là một
cuộc xăm lăng và bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản do Nga, Tàu đứng sau yểm
trợ. Mà mục tiêu như thế nên phe Cộng sản làm gì có chính nghĩa, còn bên quốc
gia của chúng ta có chính nghĩa, vì chúng ta chiến đấu để tự vệ, chiến đấu cho
tự do và dân chủ, nhưng yếu thế phải nhờ cậy đến đồng minh, đến khối tự do, thì
nhiều người nông nổi, những chính trị gia cà chớn, những nhà báo gà mờ đã vội
cho là thế nầy thế nọ, có bàn tay lông lá xen vào, nên họ cứ tưởng rằng chúng
ta không có chính nghĩa. Thằng Luân còn cho thấy một viễn ảnh, đất nước rồi sẽ
đi về đâu, các cô bác cũng còn hồ nghi nhưng không ai phản bác cả, riêng
cha thấy thì nó nói cũng có lý. Mẹ Thủy hỏi: vậy thì nó tiên đoán
quốc gia mình sẽ ra sao vậy ông. Cha Thủy nói: Nó nói rằng cuối cùng chủ nghĩa
cộng sản sẽ sụp đổ chúng ta sẽ thắng, nhưng không lâu thì Cộng Sản sẽ chiếm
Miền Nam, vì mục tiêu của Cộng Sản là phải đánh thắng, phải chiếm cho được Miền
Nam để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản khắp toàn cầu, chứ không phải vì
thống nhất nước nhà, vì độc lập dân tộc hay vì phát triển đất nước. Do đó, việc
Hòa Đàm Ba Lê chỉ là việc làm thừa thải, mấy ông Mỹ thì muốn trấn an bọn phản
chiến, và muốn bỏ chạy, còn bọn cộng sản thì chỉ để hoãn binh và tuyên truyền,
khi nào cơ hội đến thì chúng sẽ đánh rốc tới Sài Gòn, cơ hội đó là lúc Mỹ rút
hết quân ra khỏi Miền Nam, là Mỹ chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa …
Với cái nhìn và nhận xét
về Luân như thế nên cách đối xử và những cảm tình mà cha mẹ Thủy dành cho Luân
cũng có một vị trí đặc biệt và nó cũng có ảnh hưởng lớn lao thuận lợi trong vấn
đề tình cảm giữa hai người. Khi nghe có người cho rằng các ông Quốc Gia Hành
Chánh là những ông thư lại, sớm vác ô đi tối vác về, trốn nguy hiểm trong
chiến tranh, không ngang tàng như những sĩ quan tác chiến, hoặc bay bướm bằng
những chàng sĩ quan phi công, hải quân Nhưng Thủy lại nhìn thấy ở Luân rất có
tấm lòng với đất nước, chàng theo dõi tình hình rất sát, suy nghĩ, phân tích về
các vấn đề quan trọng của nước nhà, chàng có những hoài bão và quyết tâm thực
hiện. Những việc làm của chàng cũng đầy nguy hiểm và không thiếu những chuyện
bất trắc có thể xảy ra, chàng dấn thân trong những hoạt động chính trị và đấu
tranh cho lý tưởng của mình. Nhìn khuôn mặt đầy đặn của chàng, thì ở một người
đàn ông phải được xem là phúc hậu và rất tình cảm, tuy nhiên nhìn kỹ vẫn có
những nét bướng bỉnh, nhất là khi chàng bất bình mới thấy được cái quyết liệt
trên khuôn mặt đó. Còn bay bướm và hào hoa thì thực tế trả lời tại ký túc xá
của học viện QGHC, nơi ở dành cho những chàng sinh viên phong lưu hành chánh,
người ta thấy xe cộ tấp nập và không bao giờ vắng bóng giai nhân, vào những
ngày nghỉ cuối tuần. Ngẫm lại lời nói của O. Pirmez “Người đàn bà chỉ yêu
những người họ kính trọng”, Thủy rất kính trọng Luân và nhiều lần hỏi
lòng, nàng thấy mình đã yêu Luân thực sự.
Thời gian rồi cũng qua
nhanh, Lễ tốt nghiệp Cử Nhân Ban Công Pháp trường Luật Khoa Sài Gòn đồng thời
với Lễ tốt nghiệp Ban Đốc Sự ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh của Luân đã đến.
Ngày chàng lên đường nhận nhiệm sở tận ngoài Miền Trung chàng đến chào cha mẹ
Thủy, nhưng tuyệt nhiên chàng cũng không đề cập gì đến chuyện của hai người,
khi ra về chàng nháy mắt cho Thủy theo ra ngoài rồi hẹn Thủy ngày
hôm sau sẽ gặp nhau ở một quán vắng thường gặp ở ngoài xa lộ. Thủy đã dự định
trong đầu là lần nầy sẽ trách Luân về chuyện kéo dài thời gian, không sớm lo
việc hôn sự hay ít nhất là cha mẹ Luân phải vào Sài Gòn một chuyến để các ông
bà già lâu ngày có cơ hội gặp nhau, sau là có lời đính ước cùng cha mẹ nàng.
Nhưng khi vừa ngồi vào bàn là Luân đã mở lời trước: “Trước hết, anh xin lỗi
Thủy là đã làm em hồi hộp chờ đợi cái ngày mà cha mẹ anh sẽ vào gặp hai
bác để tính chuyện hôn sự của chúng ta. Em hãy yên tâm, trên đường nhận nhiệm sở
anh sẽ ghé về gia đình trước để thưa chuyện với cha mẹ anh rồi sau đó anh mới
ra nhiệm sở. Anh nghĩ rằng trong năm nầy thế nào mọi chuyện cũng đâu vào
đó. Tin tưởng anh em nhé. . .”. Thủy thấy dường như Luân đang nhìn thấu trong
đầu mình, bao nhiêu những điều Thủy dự định nói, dự định trách móc thảy đều được
Luân nói ra tất cả, nên cuối cùng Thủy chỉ biết nói: “Em tin tưởng tất cả
nơi anh”. Rồi nàng lại thừ người ra, nghĩ đến những việc sắp xảy ra có được như
Luân đã hoạch định hay không, hay những thay đổi kinh hoàng gì có thể xảy đến.
Nàng với Luân rồi sẽ ra sao, có còn sống gần nhau? Còn gặp lại nhau ? Sao
lúc nầy nàng thấy mình rất cần đến Luân quá đổi. Mấy hôm nay chỉ nghĩ tới vấn
đề giữa hai người, bây giờ nàng chợt nhận ra Luân đối với nàng thật khá quan
trọng… Biết người yêu đang lo lắng, Luân tìm cách chuyển đề tài qua cuộc
sống của những người bạn thân đang ở rất xa họ.
Ba tháng sau khi Luân đi
nhận nhiệm sở, vào một buổi sáng Thủy cầm tờ Chính Luận đọc tin sớm như mọi
ngày, nàng bàng hoàng khi đọc cái tít lớn nơi trang nhất “Quận Hoài Ân thất
thủ, Trung Tá Quận Trưởng tử thương, Phó Quận Trưởng mất tích”, tờ báo
rời khỏi tay nàng lúc nào không hay. Thủy bật khóc thành tiếng rồi chạy thẳng
vào phòng nằm vật vã trên giường. Suốt cả tuần nàng phờ phạc cả người,
không ăn được ngủ được. Đầu óc Thủy quay cuồng, ở đâu cũng thấy hình ảnh Luân
thấp thoáng, mờ nhạt qua dòng nước mắt, tất cả những hình ảnh ấy làm cho trong
nhớ thương có pha thêm nhiều hương vị đắng cay. . . Khi quận lỵ được tiểu đoàn
Trâu Điên ra giải tỏa và tình hình chiến sự đã lắng dịu, Thủy xin phép cha
mẹ ra tận nơi để thăm hỏi tin tức về Luân, nhưng tất cả đều bặt vô âm
tín, những sĩ quan và binh lính có mặt tại quận trước giờ bị tấn công mỗi người
đều nói một khác, nhưng mọi người đều phỏng đoán rằng Luân đã chết trên chặng
đường rút lui vô rừng. Về lại Sài Gòn với tâm trạng buồn bã, với bao hy vọng
đều tan biến, nàng không còn muốn giao thiệp với ai ngay cả các bạn gái đang
học Văn Khoa với nàng, có lúc nàng chỉ nghĩ đến cái chết….
Nỗi buồn nào rồi cũng
nguôi ngoai theo thời gian. Trong suy tư Thủy chợt nhớ lời Luân đã từng
nói với nàng rằng mọi chuyện trên đời chắc chắn phải có sự kết hợp theo
nhân duyên của nó, ví như một giọt nước được đưa vào trong cơ thể con người,
lại có một phần trở thành nước mắt, có phần lại trở thành nước tiểu, nên trong
mỗi chúng ta họp tan, phân ly đều phải tuân theo lẽ đó, vậy thì có gì phải buồn
lòng khi sự việc xảy ra không như ý muốn chúng ta. Nàng thầm cảm ơn Luân khi
chàng có một quan niệm hôn nhân rất thoáng nếu không giờ nầy nàng đã mang tiếng
là một quả phụ khổ đau. Nàng quyết định đi học lại, lấy lại quân bình và bắt
đầu một cuộc sống mới…
Một
buổi trưa thứ Bảy, khi ở thư viện về Thủy thấy cha mình đang tiếp khách nhưng
không ai xa lạ một vị linh mục có họ hàng với nàng, một vị dân biểu quốc hội là
bạn thân của cha nàng và một vị sĩ quan hải quân trẻ tuổi. Tối hôm đó cha nàng
gọi nàng vào phòng riêng cho biết vị sĩ quan trẻ tuổi đã nhờ những người quen
với gia đình mai mối muốn cầu hôn với Thủy. Cha nàng nói hôn nhân đại sự là
chuyện của nàng, nên mọi quyết định là do nàng, cha mẹ chỉ là những người góp ý
qua những kinh nghiệm của tuổi đời có được, vậy thì nàng hãy suy nghĩ rồi có gì
không thông thì cho cha mẹ biết. Thủy nói với cha nàng, xin cho nàng hai năm
sau sẽ trả lời, nếu vị sĩ quan đó có kiên nhẫn chờ đợi. Nàng nói với cha rằng
đó là thời gian cần thiết cho hai bên tìm hiểu nhau. Nàng cũng thầm nghĩ
mặc dù quan hệ giữa nàng và Luân không cho cha mẹ biết chuyện họ đã yêu
nhau nhưng nếu biết được chắc cha mẹ cũng bằng lòng, bây giờ Luân đã mất tích
nên nàng cũng phải dành chút thời gian để sống cho hết tình nghĩa với nhau.
Trong thâm tâm nàng nghĩ rằng biết đâu Luân sẽ trở về… Nhưng Luân đã không trở
về và giữ đúng lời hứa, hai năm sau nàng đã lên xe hoa.
x
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, khi mà bầu trời Sài Gòn
đang vần vũ như khóc than cho vận nước, thì bên trong hội trường của Quốc
Hội Việt Nam Cộng Hòa thầy Trần Văn Hương tuyên bố rằng “trò Dương Văn
Minh bắt buộc thầy phải trao cái khăn ‘Mùi-Soa’ cho trỏ” trước sự chứng kiến
của đám dân biểu và thượng nghị sĩ, có nghĩa là một ông Tổng Thống được Hiến
Pháp công nhận, đang trao quyền cho một người nào đó mà không cần dựa vào
một điều khoản nào của Hiến Pháp quy định, thì đích thị những nhà lãnh đạo đang
tự treo cổ mình, Quốc Hội đã xé toẹt cái văn kiện pháp lý căn bản mà mình làm
ra, còn cái ông tiến sĩ luật, giáo sư trường luật đã từng cạo đầu phản đối việc
làm “độc tài và gia đình trị” của một Tổng Thống thì bây giờ tự nhận là Thủ
Tướng và làm một chuyện vô pháp luật như thế nầy, thì Thủy nghĩ rằng nước đã
mất nên nàng hối thúc chồng hãy xuống tàu sang Hoa Kỳ cho sớm. Chồng nàng đang
là Hạm Trưởng một chiến hạm của hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Sau mấy ngày lênh
đênh trên biển Thái Bình con tàu chở cả ngàn người đã cập bến đảo Guam, một căn
cứ hải quân của Hoa Kỳ. Theo sự sắp đặt vì trách nhiệm một đồng minh trong cuộc
chiến mọi người tị nạn dù là Hạm Trưởng cũng đều phải rời tàu để vào trại
tị nạn đã được thiết lập sẵn trên đảo. Tại đây Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp
Quốc sẽ làm những thủ tục pháp lý cần thiết và xét theo đơn xin của từng
người mà sẽ được phân bổ cho đi định cư ở một nước thứ ba. Gia đình của Thủy
được đưa đến trại Fort Chaffee, sau đó được gia đình một người Mỹ trắng bảo trợ
để về định cư tại Houston, Texas. Nhờ đem theo một số vốn nên buổi ban đầu gia
đình Thủy không phải vất vả lắm trước cuộc sống
mới,
hơn nữa
gia đình Thủy đã có kinh nghiệm trong chốn thương trường nên việc làm ăn sau đó
tiến triển rất tốt.
Riêng chồng Thủy cũng
giống như phần đông các sĩ quan khác, vì quen với nếp sống hào hoa bay bướm nay
được sống trên một đất nước tự do và đầy quyến rủ, nên đã không đem lại cho
Thủy một niềm vui trọn vẹn, nàng đành phải ly dị mặc dù sau một thời gian định
cư dài và nay đã có cháu nội ngoại.
x
Phần Luân trong trận tấn
cộng của địch vào quận lỵ, chàng đã bị bắt làm tù binh nhưng vì bị thương
nhẹ nên chàng được lực lượng địch chuyển sang một trạm xá dưới chân dãy Trường
Sơn và sau khi khai thác lý lịch cá nhân, chàng bị xếp vào loại “nguy hiểm cho
cách mạng” nên khi vết thương lành hẳn, chàng bị đưa thẳng ra Miền Bắc và được
giam giữ tại một nhà tù tận tỉnh Lao Cai, do đó không một ai quen biết gặp được
chàng sau cái ngày cộng quân chiếm quận lỵ. Sau 30 tháng 4 năm 1975, chàng bị
chuyển qua nhiều trại giam trong một thời gian dài, sau cùng chàng được “tạm
tha” và bị chỉ định nơi cư trú. Chàng phải đi lao động sản xuất tại khu kinh tế
mới Thuần Mẫn thuộc tỉnh Daklac. Trong khi chặt cây phá rừng một trái mìn
phát nổ làm chàng bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện Daklac để cấp cứu,
chữa trị. Na Lang một y tá người sắc tộc Gia Rai săn sóc vết thương cho chàng.
Na Lang đã kết hôn với Siu Hóa và có một con. Siu Hóa thành viên trong tổ
chức Fulro, đang bị nhà nước Cộng Sản truy lùng nên phải chạy sang đất Thái,
nghe đâu được chính phủ Hoa Kỳ cho tị nạn và hiện định cư tại North Carolina,
Hoa Kỳ. Na Lang rất mến Luân, có lần nàng đã tỏ tình cùng chàng, nhưng Luân vẫn
giữ lập trường về chuyện lập gia đình, chàng nghĩ rằng cuộc đời chàng chưa ổn
định, lập gia đình cũng chỉ làm khổ người đàn bà thương mến chàng mà thôi, hơn
nữa sau đó chàng biết được Siu Hóa lại là bạn học cùng khóa với chàng ở trường
Quốc Gia Hành Chánh. Nhân được chính phủ Hoa Kỳ và Hà Nội thỏa thuận cho những
tù nhân cải tạo được đi định cư tại Hoa Kỳ, Luân thấy rằng nhân đây chàng có
thể trả ơn Na Lang đã săn sóc tận tình để cứu sống chàng và chàng có bổn phận phải
giúp gia đình bạn sum hợp, nên chàng đã đề nghị cùng Na Lang ý định của mình là
họ sẽ kết hôn trên phương diện giấy tờ, và giao ước rằng khi nào đến Hoa Kỳ, Na
Lang sẽ sang North Carolia với Siu Hóa, chồng nàng.
Luân định cư tại
California theo chương trình tị nạn chính trị “ diện HO 10” vào năm 1996. Một
tháng sau qua Hội CSV/QGHC, Na Lang đã liên lạc được với Siu Hóa. Trong buổi
chia tay đi North Carolia, Na Lang đã đổ nhiều nước mắt, còn Luân thì cũng bùi
ngùi nhưng cảm thấy trong người rất thỏa mái. Bạn bè khắp nơi tới tấp gọi điện
thoại thăm hỏi và chúc mừng chàng đã đến được bến bờ tự do. Được bạn bè đến
trước hướng dẫn, chàng lăn xả ngay vào cuộc sống mới bằng một công việc full
time ở một công ty fast food, thì giờ còn lại chàng viết sách, và giao tiếp với
bạn bè… Hơn một tháng nữa thì nhóm bạn cùng trường với chàng ngày còn ở trung
học sẽ họp mặt thường niên, họ yêu cầu chàng đứng tên trong ban tổ chức để phát
thư mời đi khắp nơi, chàng đồng ý ngay.
Nhận thư mời tham dự họp
mặt năm ấy, Thủy phát hiện một tên mới đứng trong ban tổ chức, nàng sinh nghi
nên gọi liền cho Phan, một người bạn rất thân trong ban tổ chức họp mặt hằng
năm để hỏi rõ tên Luân là ai, và được Phan xác nhận là ông Phó Quận Trưởng bị
mất tích ở Hoài Ân trong chiến tranh. Nàng gọi liền điện thoại cho Luân :
-
Hello, xin cho tôi được
gặp ông Luân.
Bên kia đầu giây tiếng Luân sang sảng như ngày
nào:
-
Thủy đó hả, chào em, rất
mừng được gặp lại em, cứ tưởng là …
Không đợi Luân nói tiếp, Thủy nói như giận hờn:
-
Ông biết tôi là ai, mà
mừng, mà tưởng…
Vẫn lối nói dùa cợt ngày nào, Luân nói:
- Người mà tôi yêu thương suốt đời, hình bóng đang
ở trong tim tôi, chẳng lẽ nghe giọng nói mà không nhận ra được sao ?
Đến đây thì Thủy không
kiềm được cảm xúc, nàng bậc khóc rưng rức…. làm Luân cũng đâm bối rối, đang lựa
lời để an ủi nàng…bỗng Thủy ngưng tiếng khóc, nàng nói không ngừng nghỉ, những
ấm ức mà nàng mang nó suốt mấy chục năm rồi, chung quy nàng trách
cái tính thẳng thắn không chịu quỳ lụy của chàng, không chịu nghe lời nàng nên
mới ra nông nỗi mỗi
người một ngả… Nàng nói như để chấm dứt câu chuyện :
- Cuộc họp mặt kỳ nầy bà già bả khăng khăng đòi đi
cho được, để được gặp anh. Liệu hồn mà trả lời đó nghe.
- Em yên chí, bác cũng như em muốn hài tội gì anh
cũng chấp nhận hết.
Gặp
lại Luân, mẹ con nàng như bị chàng thu phục. Chàng như đoán trước những gì mà
mẹ nàng và nàng muốn nói nên chàng đã nói trước tất cả. Phần mẹ nàng cũng
thương chàng như con nên cũng không muốn nặng lời trách móc chàng làm gì sau
mấy chục năm mới gặp lại trong sự mừng tủi. Trên đường về lại Houston sau buổi
họp mặt Thủy nói với mẹ. Mẹ định nói gì với anh Luân sao không thấy mẹ lên
tiếng mà chỉ nói được có một câu vậy. Mẹ nàng nói : Hồi giờ tao và cha mầy cũng
xem nó như tụi bay thì còn trách cứ làm gì. Xem ra nó còn thương mầy lắm nhưng
làm sao thì làm đừng để tụi cháu nhỏ nó buồn.
Mùa
hè năm đó họ hẹn gặp nhau trên chuyến du thuyền Princess Cruises ở
Hawaii. Bảy ngày họ du lịch trên năm hải đảo lớn, họ sống trong cảnh thần tiên
của một chuyến hải hành, họ nói với nhau những điều muốn nói và trao cho nhau
những gì có thể. Một buổi chiều du thuyền vừa cập bến Honolulu, đứng bên nhau
trên sân thượng cao nhất của chiếc du thuyền nhìn cảnh mặt trời lặn xuống biển
Thái Bình bất giác Thủy hỏi Luân:
- Bao giờ thì anh cho em biết cuộc sống của anh đã
ổn định để cần có một mái ấm ?
Ý
Thủy muốn khơi lại để khuyên Luân phải tìm một ý trung nhân mà xây dựng một mái
ấm gia đình, và để bù lại cho Luân những tháng ngày cực khổ và cô đơn. Nhưng
Luân lại hiểu theo ý khác, chàng nói:
- Thủy ơi! Anh yêu em lắm như anh đã nguyện suốt
đời, nhưng bây giờ chúng mình đã già rồi. Anh còn độc thân thì không nói làm
chi. Nhưng anh không muốn em phải nghe những đứa cháu nhỏ của em nói với ai đó
rằng “bà nội/bà ngoại của tôi vừa lên xe hoa đi lấy chồng”. Cảm ơn em đã cho
anh những giờ phút hạnh phúc như thế nầy, anh còn muốn nói gì và muốn làm gì
hơn nữa!
Thủy
quàng tay qua cổ Luân, nàng nói chỉ hai người đủ nghe:
-
“Tình anh vẫn như thơ…”
Luân nói bên tai Thủy:
-
“Tình em vẫn như mơ…”
·
Lê Nguyễn
No comments:
Post a Comment