Friday, September 2, 2016

TÓC MAI NGÀY CŨ (Nguyễn Văn)





             Nguyễn Văn

         TÓC MAI NGÀY CŨ

   Tôi ghé thăm Lan vào một ngày trời mưa dầm rả rích. Những cơn mưa dai dẳng làm chết cây, thối đất của mùa đông miền Trung. Bầu trời thấp tè, xám đục và u ám một màu chì. Thành phố nằm co ro, rét mướt trong cơn mưa. Phố xá trông đìu hiu, cảnh buôn bán cũng chùng lại, uể oải như cô gái già đang đến hồi ở cữ.

  Nhà Lan nằm ở ngã ba thị xã Tuy Hòa. Trước mặt là quốc lộ 1A, con đường chạy xuyên từ Nam ra Bắc. Năm 2005, thị xã được nâng lên cấp thành phố, người ta làm quốc lộ mới chạy dọc theo chân núi phía Tây, con đường nhộn nhịp ngày xưa trở thành đường nội thành.

  Căn nhà cấp bốn xập xệ của gia đình Lan được sửa sang lại thành quán cà phê ôm. Khoảng sân xi măng nhỏ xinh xắn phía trước thành khu vườn cây cảnh. Bên những chậu mai, gốc trứng cá thấy kê những chiếc ghế đá cho khách  ngồi. Gian trong đặt chừng năm sáu chiếc bàn vuông. Mặt bàn được làm từ thứ ván ép công nghiệp, lâu ngày mốc thếch. Ghế ngồi là loại ghế xếp, chân bằng sắt đã bắt đầu rỉ sét. Một chiếc quầy kính  nằm bên góc phòng, bên trong trưng bày đủ thứ hàng, từ bia chai Heineken, nước lon Coca, đến thuốc lá ngoại với đủ loại nhãn mác… Nhìn vẻ hoang vắng của căn quán, người ta dễ đoán biết chủ nhân của nó đang hồi làm ăn thất bát. Cái đáng giá nhất ở đây, có lẽ là những bức tranh thơ bằng vải viết theo lối chữ thảo bay bướm, treo lạc lõng dọc bức tường vôi ám khói, loang lỗ.
  Ngoài những bài Thu Điếu, Thu Ẩm, Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến, còn thấy chép một câu đối khá hay, không rõ của ai.
“ Bản thủy vô ba, tự phong xây diện.
  Nguyên sơn bất lão, vị tuyết bạch đầu.”
( Tạm dịch: Bản chất nước vốn bình lặng, chỉ có gió mới làm cho nó nổi cơn ba đào. Núi non vốn không có tuổi, chỉ vì tuyết sương mà thành ra bạc đầu.)
  Lại có một bài, thể thơ tự do, lời lẽ mông lung, không thấy đề tên tác giả:
 “tình là gì?
   rượu uống nghìn ly, trắng mắt
   đàn bà mỗi ngày, mỗi đẹp
   mình mỗi lúc, mỗi già
   sông bên bồi, bên lở
   người kẻ ở, kẻ đi
   thôi nói chi, buồn chi
   đời như ly rượu nhạt

   Quán ngày mưa vắng ngơ vắng ngắt, chỉ độc một người khách là tôi. Trong quán chỉ có Lan với đứa bé gái khoảng 14, 15 tuổi, người ốm tong, thuôn đuột như cây chuối, đang nằm đong đưa đọc sách trên võng. Đứa bé gọi Lan bằng cô, không biết quan hệ bà con thế nào.

  Ngày xưa tôi với Lan và Trân là bạn cùng lớp, đi đâu cũng ba người, chơi thân đến tưởng chừng như không thể thiếu nhau trong đời. Chúng tôi như ba đỉnh của một tam giác đều, cùng nằm trong một mặt phẳng nhưng không thể xích lại gần nhau. Ngày Lan đi lấy chồng, tôi chun vào quán thịt chó nhà Trân nằm đối diện, ngồi đốt thuốc, phun khói mù mịt. Nhà Lan bên kia đường đang treo đèn kết hoa, khách khứa ăn uống nói cười râm ran cả một góc phố.

  Bố Trân thọt chân, tướng ngũ đoản, nhìn tôi châm bẩm. Ông họ Tôn, không biết tên gọi là gì. Nghe kể, gốc gác gia đình ông có dây mơ rễ má với triều đình nhà Nguyễn. Ông chỉ có mỗi con gái là Tôn Nữ Huyền Trân. Trân mặt tròn phúng phính, mập lùn giống bố, bước đi lạch phạch. Mắt cô nàng cận đến 5 độ, đeo cặp kính dày như đít chai, học giỏi nhất lớp. Mãi đến sau này tôi mới biết, ngày ấy Trân yêu thầm tôi, trong khi tôi lại đi mê đắm cô bạn nhà bên kia đường.
Bố Trân nói giọng Huế, nhẹ đến đong đưa:
 “Trân vừa sang bên nớ. Thế mi không đi ăn cưới hỉ?”
 “Không!...Bác bán cho cháu xị rượu.”
 “Mi uống?”
 “Dạ…”
 “Có tâm sự hỉ?” 
Trong khi tôi ngồi cố đưa cái thứ nước cay nồng ấy qua cổ họng, lão Tôn như đọc được nỗi buồn của tôi.
 “Mi không biết chi về đàn bà! Con Lan vướng số hồng nhan, mắt nhìn có đuôi ướt át thế kia, ít nhất cũng vài đời chồng. Thích chi mô!”

  Tôi nhìn lão Tôn bằng cái nhìn của kẻ sắp sửa gây rối. Tôi muốn văng tục mấy câu. May mà tôi đã không làm. Tôi quơ chai rượu ngửa cổ nốc sạch. Vừa để cái chai không xuống mặt bàn, cũng là lúc mắt tôi đổ hào quang. Bầu trời như vỡ ra thành muôn ngàn đốm sáng. Rồi mọi thứ bỗng dưng tắt ngấm, không còn lại gì ngoài một khoảng tối mênh mông đen đặc. Người tôi đổ gập xuống mặt bàn như thân chuối gãy. Tai còn nghe văng vẳng tiếng pháo nổ đì đẹt. Bên nhà Lan đang làm lễ rước dâu…

  Bao năm không gặp, Lan xưa giờ thành góa phụ, dáng dấp phong trần. Dung nhan ngày nào không tàn phai theo thời gian mà chín chắn, sắc sảo hơn. Lan làm bà chủ quán, mặt trát phấn, tỉa mày cong, môi thoa son đỏ, nói chuyện đẩy đưa với khách. Cuộc đời có muôn trò vui, buồn làm gì cho héo đời. Lan bảo thế.

  Câu chuyện giữa chúng tôi diễn ra rời rạc đến ngượng ngập. Cả hai ngồi nhìn màn mưa giăng ngoài cửa quán. Nước chảy từ mái tôn rải đều xuống hàng hiên. Tiếng mưa u u, đơn điệu đến rã rời. Trời đất trắng xóa một màu.
 “Anh về thăm quê bao lâu?”
 “Khoảng ít tuần…”
 “Chị nhà không về cùng anh à?”
 “Không.”
 “Anh sinh được mấy cháu rồi?”
 “Hai.”
 “Con trai chứ?”
 “Con trai.”
 “Giá như mình có một đứa thì hay,” Lan  nói mơ màng.
 “Sao không chịu đẻ?”
 “Bác sĩ bảo Lan vô sinh.”
 “Chữa được không?”
 “Không.”
  Lại im lặng. Lan thừ người, đưa mắt nhìn ra cửa. Ngoài kia, nước chảy thành dòng trên mặt đường, đổ dồn về phía con dốc thấp. Vẫn mắt bồ câu xưa, nhưng ánh nhìn đờ đẫn. Hai bên khóe mắt, mỗi khi cười lại thấy hằn vết chân chim. Đã có một thời tôi yêu Lan nhiều biết bao nhiêu…
 “Trời cứ mưa thế này làm gì có khách, chán thật! Anh ở đây uống rượu với Lan, nha?”
 “Ừ.”
  Lan đem ra chai Nếp Than, rót đầy hai chiếc ly. Thức nhấm là mực khô nướng, chấm với tương ớt. Vẫn thứ rượu cũ, thức nhấm quen, hương vị chừng như không còn như ngày nào.
 “Anh còn nhớ nhỏ Trân không?”
 “Còn.”
 “Trân bây giờ là hiệu trưởng trường THCS ở phường, vẫn cu ky một mình. Nhỏ vẫn thường ghé đây, cứ hỏi thăm luôn về anh. Để Lan điện thoại Trân sang nói chuyện cho vui.”
 ‘Ừ.”
 “Ở Mỹ vui không?”
 “Ly hương thì vui gì.”
 “Không biết sao, Lan vẫn cứ muốn sang bên đó.
 “Sao lại muốn đi?”
 “Bây giờ chán đàn ông Việt, muốn lấy chồng Tây... Anh có người bạn Mỹ nào, giới thiệu cho Lan.”
 “Thế chồng Lan ngày xưa đâu?”
 “Bỏ nhau rồi. Mà Lan cưới những ba lần chứ đâu phải một. Mình không sinh được con, lại trắng tay. Họ ở với mình làm gì. Đàn ông các anh nếu không bắt đàn bà tụi Lan sinh con để nối dõi thì cũng là thứ tham tiền, hám gái, có mới nới cũ. Nói chung là thứ giống đực thô bỉ, chẳng ra gì…” Lời lẽ Lan cay đắng.
 “Ước gì mình trở lại như ngày xưa anh nhỉ? Nhỏ Trân còn thương anh lắm!”
  “Chuyện cũ, nhắc làm gì!” Tôi nói bối rối.
  Trước đường có một người trùm áo mưa kín cả mặt, tay cầm chiếc dù, đứng thập thò nhìn vô quán.
 “Ở lại đây với Lan đêm nay, nha? Hay anh cũng giống như mấy ông Việt Kiều, chỉ thích gái trẻ.…”
  Lan nhìn tôi, mắt lả lơi. Tôi ngồi, mặt đỏ bừng. Cơn giận dữ bỗng từ đâu tuôn trào khiến tay chân co giật. Người run bắn. Lan rót đầy ly rượu, nhấc tay uống cạn. Giọng nói tỉnh queo như thưở nào:
 “Ở Mỹ bao năm, cứ tưởng anh thay đổi, không ngờ lại còn nhát cáy như ngày xưa!” 

  Rồi Lan cười. Tiếng cười vỡ ra loảng xoảng, vang trong không gian se lạnh, man dại đến đĩ thõa. Người tôi dật dờ. Đầu óc xoay tít như chong chóng. Tôi thấy chiếc ghế mình đang ngồi không còn cố định nữa. Nó bồng bềnh, đong đưa như đang trôi giữa dòng nước lũ. Tôi nghe có một thứ gì đó đang dâng lên trong cổ họng, róng riết đòi giải thoát. Cảm giác thật tởm lợm. Tôi xô ghế, lao ra rãnh nước trước mặt quán, cúi gập người. Mọi thứ bỗng trào lên, phun bắn ra, xối xả.  


  Tôi đứng bơ vơ bên lề đường. Tôi không biết sẽ đi đâu, về đâu khi cơn mưa còn đang giăng mù mịt. Tôi cứ để đầu trần, quần áo phong phanh giữa trời đất, bước hoang hoải về phía trước. Mặc cho mưa dội lên tóc. Mưa tuôn trên mặt. Một cảm giác lạnh buốt, rời rã đến nhẹ hẫng miên man trong da thịt. Tiếng Lan cười, lúc xa lúc gần, văng vẳng trong không gian sũng nước. Tất cả hình như không có thật. Chắc tôi quá mẫn cảm. Mà cũng có thể do tôi tưởng tượng ra.

  Bỗng một chiếc dù của ai đó che lên phía trên đầu. Không biết sao tôi cứ nghĩ là Lan. Khi tôi xoay mình lại, trước mặt tôi lúc đó là một con người hoàn toàn khác. Một thân hình nhỏ nhắn, xúng xính trong chiếc áo đi mưa, mặt tròn phúng phính, mắt kính dày như đít chai, đang nhìn tôi khóc ròng…

                                                Chicago 2012.

No comments: