NHẬT BẢN TRONG TÔI
DTDB
Gia đình tôi vào Mỹ thuộc diện
“Ô-Đi-Ghe” (vượt biên bằng ghe).
Sau khi bôn đào khỏi mẫu quốc để tị nạn
Cộng sản, thì đến được Nam Dương quần đảo. Chúng tôi may mắn hơn những thuyền
nhân khác bị bỏ
thây ngoài biền cả vì bão tố, vì hải tặc,
vì bịnh, vì đói khát, vì tàu chìm…
Đó cũng nhờ Ơn Trên che chở và hồng phúc
của ông bà cha mẹ hai bên. Cho nên chúng tôi mới vượt thoát khỏi những ngày hiểm
nguy, lênh
đênh trên biển cả, mưa giông bão nổi dật
dờ thừa chết thiếu sống cũng nửa
tháng trời! Rồi những tháng ngày lê thê
lếch thếch từ đảo nầy qua đảo khác,
gia đình tôi gồm có bốn người (hai vợ chồng
và 2 đứa con) giống và có lẽ
còn tệ hơn dân Cái Bang (những người xin
ăn trong truyện Tàu của Kim
Dung).
Chúng tôi là những thuyền nhân đang ở đảo
Ga Lăng (Nam Dương) đi
tàu qua Singapore. Nối tiếp tuyến đường
bay từ nước tạm dừng chân
Singapore để đến nước thứ ba Mỹ làm thân
chùm gởi xứ người. Trong
chuyến phi hành đó, máy bay chúng tôi
đi, đã ghé qua Tokyo (Nhật Bản) để
đổi chuyến bay từ Nhật qua Mỹ
(California)). Sau đó qua tiểu bang khác,
theo lịch trình chuyển tiếp đưa đến tiểu
bang Illinois chúng tôi được định cư.
Lúc bấy giờ là cuối năm 1979. Phi trường
Tokyo của Nhật Bản trong
tôi, trong tâm trạng của một người tị nạn
Cộng Sản Việt Nam. Bởi chúng tôi
lìa quê hương, bỏ lại nơi chôn nhau cắt
rúng, nơi có mồ mả ông cha. Nơi đã
bao đời xây dựng đắp bồi bằng xương, bằng
máu của tiền nhân, của Chiến Sĩ
Việt Nam Cộng Hòa cho một Miền Nam ấm
no, hạnh phúc, và Tự Do...
Những nhà lớn, nhà nhỏ chung quanh phi
trường Tokyo, làm tôi liên
tưởng đến lúc còn bé thơ. Cứ mỗi lần ở
nhà xài hết diêm quẹt cây, là luôn
giữ lại cái hộp không cho, tôi thường
dùng những cái hộp quẹt không đó để
chất chồng lên nhau: Cái cao, cái thấp,
chơi trò cất nhà với các bạn cùng
xóm. Cho nên những ngôi nhà cao, nhà thấp
nguy nga tráng lệ ở Tokyo tôi
nhìn thấy hôm nay, thiệt là giống hệt
như những cái hộp quẹt, trong trò chơi
trẻ con của chúng tôi thuở ngày xưa.
Thời gian trôi mãi tôi, để rồi hôm nay
đây, ba mươi mấy năm sau!
Chiếc máy bay 747, cất cánh lúc 10 giờ
45 sáng (giờ California) đưa chúng
tôi, và những hành khách từ phi trường
San Francisco, đến phi trường Narita
Tokyo của Nhật Bản.
Phải mất khoảng 11 giờ bay, tâm tư tôi
giờ đây cảm thấy thơ thới, vui
vẻ ngồi trên máy bay đầy đủ tiện nghi. Nầy
nhé có TV trước mặt (màn ảnh
gắn trên lưng ghế người ngồi phía trước)
có báo chí để xem... Phu quân tôi
đem theo sách, máy DVD nhỏ để xem phim bộ
cho thời gian qua mau, và tôi
không quên nhét vào giỏ nào, quít, kẹo,
bánh ngọt… để nhai nhỏm nhẻm
cho đỡ buồn cái miệng hay ăn vặt của
mình.
Nhưng ngồi vài giờ ở một chỗ, thì tôi
cũng tù túng nên cảm thấy uể
uải lắm! Đồng hành với chúng tôi trong
chuyến nầy, còn có vợ chồng người
bạn từ thời còn Trung học. Cho nên chúng
tôi cảm thấy vững lòng hơn khi
đến một vùng xa xứ lạ để “Đi cho biết đó
biết đây/ Ở nhà với mẹ biết ngày
nào khôn” như ông bà ta đã có câu nói đó
từ ngàn xưa. Sau những năm dài
“cày” mệt nghỉ các con đã ra trường, hai
bộ xương già dành dụm có đồng vô
đồng ra, nên mới tháp tùng đi những chuyến
thăm viếng xa...
Phi trường Narita Tokyo, 3giờ30 chiều
(Nhật, đi trước California của
Mỹ 16 giờ). Khi cửa máy bay mở rộng...
Nhật Bản đón nhận những đứa con
ra đi vì công việc, vì tương lai… nay họ
trở về thăm, hay trở về góp sức, xây
dựng cho cố quán giàu đẹp hơn. Và Nhật
cũng chào đón, những người khách
phương xa như chúng tôi đến viếng thăm,
ngắm xem những phong cảnh,
những di tích lịch sử, của nước Phù Tang
nổi tiếng trên thế giới.
Sau phần thủ tục giấy tờ nhập cảnh, khám
xét hành lý xong. Chúng tôi
(4 người) đẩy 2 chiếc xe nào va-li, túi
nải, và theo làn sóng người ra cửa chờ
đợi... Nơi đó sẽ có người đón, và hướng
dẫn đưa chúng tôi theo lịch trình
thăm viếng, trong chuyến du lịch 8 ngày ở
Nhật.
Mèn ơi, phi trường Tokyo của Nhật rộng lớn
có thua gì phi trường
San Francisco, hay phi trường Los
Angeles, hoặc O’hare của Mỹ đâu. Nơi
đón rước rào rào âm thanh nhạc êm dịu từ
những chiếc loa, cùng lời hướng
dẫn bằng Nhật, Anh, Pháp... cho hành
khách vừa mới đến. Thêm tiếng nói
khác nhau của nhiều sắc tộc... nhưng
trên nét mặt gần như ai ai cũng rạng rỡ,
vui tươi... Có người lớn tiếng chào hỏi,
nói cười, reo mừng khi gặp lại thân
nhân, bè bạn, người yêu... Cảnh ồn ào,
líu lăng của họ cũng chẳng thua gì cái
chợ mặc dù trên mọi gốc đều có viết chữ
“xin giữ yên lặng” bằng Nhật,
Pháp, Anh và nhiều ngoại ngữ khác.
Trong hàng rào cách ngăn lối dành cho
hành khách đi ra, và người đến
đón có nhiều người đứng chờ đợi sẵn. Tay
họ cầm tấm bảng có dấu hiệu,
hoặc có tên, để kẻ đi rước và người được
rước dễ dàng nhận diện nhau...
Tôi thấy phù hiệu hãng du lịch trên ngực
áo của đôi cặp vợ chồng nọ,
thì nhận biết ngay là ngoài 4 đứa tôi
ra, còn có 4 người nữa cùng đoàn du
lịch với chúng tôi. Ngoài ra tôi còn thấy
trong hàng rào chờ đợi, có rất nhiều
hướng dẫn viên du khách, của những hãng
du lịch khác...
Người đến chờ, kẻ đợi rước càng lúc càng
thưa dần! Họ đi hết rồi,
nhìn qua, ngoãnh lại chỉ còn có 4 con
nai “già” ngơ ngác là chúng tôi thôi!
Bọn tôi mong ngóng rồi chia nhau đi lẩn
quẩn tìm người hướng dẫn...
Nhưng hai mươi (20) phút, rồi bốn mươi
(40) phút trôi qua… cũng chẳng
thấy ai đâu? Thế là hai người “liền ông”
trong bọn bắt đầu càm ràm.
Ông chồng tôi bình thường ít nói, bỗng mở
miệng:
- Em mua nhầm cái hãng du lịch gì mà vô
duyên quá trời! Biết có 4
du khách ở chuyến bay nầy đến đây, mà giờ
nầy cũng chẳng ai ra đón...
Nồi ơi, ngồi máy bay suốt mười mấy giờ đồng
hồ, xương sống ê ẩm,
chân cẳng tê cứng... giờ lại nghe ông chồng
mình càm ràm nữa! Tôi thấy
mắc ghét không thèm trả lời chớ trong bụng
ứa gan lắm!
Lúc nào cũng vậy, tôi làm chuyện gì có kết
quả tốt, vui vẻ thì thôi.
Miễn có gì sai trái, hay con cái học dở
thì tôi luôn bị ổng càm ràm... Thiệt là
vô duyên hết chỗ nói! Bộ tui muốn làm
sai, hay muốn mấy đứa nhỏ học dở
sao chớ? Tôi cũng thắt thẻo, vừa bực
mình, vừa âu lo muốn chết đây, chớ bộ
sung sướng lắm sao mà cằn nhằn cử nhử? Cố
nhịn làm thinh, nhưng tôi cũng
thấy ghét lắm... Du2 vốn vỉ đó là cái tật
của phu quân mình!
Nhớ khi xưa nửa đêm gà gáy, Việt Cộng
pháo kích ầm ầm vào thành
phố. Tôi lo ẵm con xuống hầm núp thì ổng
lại cằn nhằn nào là: Con nhỏ ở
hồi chiều để em khóc, quần áo giặt không
sạch, không xúc bình sữa… Hoặc
là vợ ông không coi chừng cho con ăn no,
hồi sáng đi chợ quên mua sữa cho
con sắp hết… Tôi đang vừa lo sợ pháo giặc,
trong lòng giận vô cùng kể
nhưng cũng cố nhịn, ôm con vào lòng quơ
cái mền để sẵn, trùm hai mẹ con
cho ấm áp sướng hơn, không thèm trả lời
hai cãi cọ với ổng chi cho mệt!
Để rồi sáng hôm sau Việt Cộng pháo kích
vào thành phố! Ai chết thì
chôn, ai bị thương thì vào bệnh viện,
nhà cửa ai hư hại thì chống chỏi, hoặc
có tiền thì tự bỏ ra mà sửa chửa lại… Việt
Cộng pháo kích xong thì chuồn
mất! Chúng không cần biết gì đến cái đau
khổ, chết chốc... đã gây ra cho dân
lành... Và khi sóng lặng gió yên, tôi nhắc
chuyện hồi hôm ổng càm ràm tôi
và người làm… Ông mỉm cười, không nói lời
nào, lỏn lẻn bỏ đi chỗ khác!
Bao nhiêu năm chung sống, tôi còn lạ gì
cái tánh của chồng mình. Và đến
nay, mấy mươi năm sau chàng của tôi cũng
không thay đổi! Hể mỗi lần có
chuyện gì lo, giận, tức… thì ông chồng
tôi hay càm ràm vợ, con…
Ấy vậy, mà đó lại là cái hay cho gia
đình tôi! Bây giờ các con chúng
tôi đã thành nhân. Đứa có chồng ở riêng,
đứa đi làm xa lâu lâu mới về thăm
nhà. Mỗi lần gia đình đoàn tụ, được xum
họp trong lúc ăn uống, thì chúng
nó thường hay nhắc những chuyện xưa...
Đứa con gái lớn nhắc chuyện năm cháu còn
ở Tiểu học. Lúc đó cháu
bảo với ba cháu:
- Ba ơi, chỗ rửa chén bị nghẹt nước rồi...
Phu quân tôi chẳng nói rằng, đi tìm cây
thụt đem ra thụt cho nước
chảy thông... Thụt một hồi nước vẫn còn
đọng, ông nổi nóng nói lớn:
- Tại mẹ bây khạc cục đàm nhổ vào trong
đó... nên mới bị nghẹt!
Đứng gần nghe được, tôi tức muốn nghẹn cổ,
nhăn mặt... không dằn
được chỏ mỏ “đớp” lại liền:
- Nồi đất nồi đồng ơi! Đừng có đổ thừa
nghen! Tại nhà mướn nầy cũ
mấy chục năm rồi, có biết bao nhiêu người
ở trước mình. Ồng nước bị nghẹt,
tại dùng lâu đời nên nó không chảy thông
thương! Tôi nhổ cục đàm, chớ có
phải là cục đá đâu mà bị nghẹt? Thiệt
tình... nói vậy mà nghe được…
Mấy đứa nhỏ phá lên cười ngã nghiêng ngã
ngữa. Ức lòng lắm, nhưng
tôi cũng cười ngất ngất. Ông chồng tôi cố
làm thinh, nhưng nhịn không
được, cũng bật cười thành tiếng lớn...
Dòng hồi tưởng tôi bị cắt ngang, bởi có
người hỏi bằng tiếng Anh với
giọng lờ lợ. Tôi quay lại thì ra người
đàn bà ăn mặc chỉnh tề, đeo huy hiệu
trên ve áo. Chắc đó là huy hiệu, chức sắc,
và phận sự của bà ta ở phi trường
Narita Tokyo, bà hỏi:
- Các người từ đâu tới, và đang làm gì ở
đây?
Chồng của chị bạn tôi trả lời:
- Chúng tôi từ Mỹ tới, chờ người hướng dẫn
du lịch đến đón.
Vừa nói đến đó, thì người hướng dẫn cũng
vừa chạy vào. Cô sổ một
tràng tiếng Nhật với bà ta, rồi quay qua
xin lỗi chúng tôi (bằng tiếng Anh)
Bởi bị kẹt xe, cô phải đến bên cánh khác
của phi trưòng đón 4 người khác.
Họ đang ngồi ngoài xe...
Xe rước chúng tôi ra khỏi phi trường,
thì phố xá đã lên đèn. Bầu trời
âm u, tiết trời lành lạnh. Cái lạnh dễ
chịu của mùa xuân trên đất Phú Tang.
Chúng tôi được đưa đến một khách sạn lớn,
sang trọng nằm dưới chân đồi
xoai xoãi. Người hướng dẫn làm thủ tục để
chúng tôi nhận phòng ngủ đêm
nay (lúc đó đã hơn 7 giờ tối). Cô dặn
chúng tôi để hành lý trên phòng, rửa
mặt rồi xuống dùng bữa ăn tối kẻo trể...
Hai lỗ tai còn lùng bùng và điếc căm, mặt
tôi lừ đừ, dã dượi vì gió, vì
máy bay lên cao, xuống thấp, xuyên vào
những đám mây dầy đã lắc lư của
con tàu bay! Tôi dụi mắt mấy lần tưởng
nhìn lầm khi bước vào phòng ăn của
khách sạn, vì cả phòng đa số là người Việt.
Tôi nhận ra cô Loan Anh và phu
quân, mà mấy mươi năm trước dạy ở trường
Trung học Phan Thanh Giản và
Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ).
Thật không gì vui cho bằng, những người
đồng hành đã quen biết
trong chuyến du lịch nầy, còn những người
khác toàn là đồng hương của
mình nữa... Họ đến từ Nam California, Bắc
California, Seattle (Washington),
Sacramento (Thủ phủ của California) New
York. Chúng tôi họp lại thành
một đoàn có 34 người (chỉ 1 ngườì Mỹ, 6
người Tàu) không nói và nghe
được tiếng Việt rành rọt, nhưng phối ngẩu
của họ là người Việt Nam.
Theo thời khóa biểu kèm theo giấy máy
bay, có từ khi hãng du lịch
gởi đến tận nhà, khoảng hai tuần trước
khi lên đường. Hôm nay, đoàn chúng
tôi sẽ đi thăm viếng những phong cảnh,
những di tích lịch sử xa xưa, uy
nghiêm, cổ kính và hiện đại của Nhật.
Những thắng cảnh thăm qua vừa đẹp lại vừa
mới lạ... đã tạo cho nước
Nhật nổi tiếng, về nhiều mặt đứng nhứt
nhì trên thế giới.
Chúng tôi đi thăm khu thương mại sầm uất
ở Tokyo. Hàng hóa trong
các tiệm đều sản xuất ở Nhật. Nhân công
và chủ tiệm đều là người bổn xứ.
Hàng hóa Nhật cái gì cũng đẹp, cũng xinh
xinh, cũng gọn gẻ trang nhã dễ
nhìn hơn những hàng hóa, vật dụng của
ngoại quốc như: Tàu, Pháp, Mỹ,
Mễ, Ấn Độ… Nhưng nói về phần phẩm chất bền,
chắc… thì Nhật chưa chắc
đã hơn các nước khác nhứt là Mỹ.
Tôi nhận thấy ở Nhật Bổn cái gì giá cũng
cao, cũng mắc. Từ đồ dùng
cho đến thức ăn, nước uống và phương tiện
di chuyển bằng Taxi chẳng
hạng, giá cả cao ngất trời xanh…
Thí dụ như:
* Cái sống chén bằng nhựa (như cái rổ
hình chữ nhựt, bên dưới có
miếng nhụa để giữ nước rỏ xuống khi chén
được rửa sạch úp lên). Tại khu
chợ Nhật tính ra tiền Mỹ phải là 22
dola. Trong khi tại Mỹ, tôi chỉ mua giá
bình thường là 4 dola 99 cents, cộng
thêm thuế vào chưa tới 6 dola. Gặp lúc
hạ giá, còn rẻ hơn 1, hoặc 2 dola là việc
hết sức bình thường.
* Ở đây, một trái chuối già chín vàng
không lớn lắm cũng phải 3 dola.
* Củ khoai lang nướng bằng cườm tay (người
ốm) cũng 4 dola.
Thấy giá trái dưa hấu, bà bạn tôi mở to
mắt, thảng thốt kêu lên:
- Chu mẻ mẹt giời ơi! Ở Mỹ bán 5 dola
tui không thèm mua, còn dọa
kêu lính bắt là đàng khác! Úi ông bà ông
vải ơi! Bà con lại đây xem đi, trái
dưa hấu thường như vậy mà 74 dola?
* Trái dưa tây, có nơi gọi là dưa hoàng
kim (cantelope) 21 dola/1 trái.
Bà khác cũng đi chung đoàn, liếc xéo hấy
nguýt trái dưa như oán thù từ
muôn kiếp trước, rồi trề môi dài cả thước,
lẩm bẩm:
- Bộ điên sao mà mua trái dưa như vậy mà
21 đola? Đồ cái thứ mắc
ma nầy bên Mỹ 1dola, hoặc 99
cents/1trái. Tươi rói, ngọt như đường, bự tồ
bà dền tôi còn chê mắc, không thèm mua nữa
đó. Bởi có khi trúng mùa họ
bán 1 dola (1$/2 trái) có khi 1$/3 trái
nữa đó...
Tôi cười:
- Biết mắc, nhưng người ta cũng phải mua
để ăn chớ. Có như vậy, họ
bán mới được. Về Mỹ mà thuật lại, chắc
những người bên đó sẽ bảo chúng
mình nói láo hả chị? Nhưng thật sự mắc
quá đi thôi, tôi nghĩ có lẽ lương
hướng của nhân viên ở xứ nầy cao lắm mới
sống nổi?
Ấy vậy mà đến bữa ăn chiều ở nhà hàng,
các món tráng miệng, trái
cây tươi rất phong phú. Ngoài bánh ngọt,
các loại sương sa hột lựu ra còn
có: dưa tây, dưa hấu, chuối già chín, cả
trái vải đông lạnh nữa…
Bà bạn cười tủm tỉm, kề tai tôi nói nhỏ:
- Tụi mình phải ăn nhiều, ăn hết mấy
trái cây nầy. Ăn cho bỏ ghét, ăn
để trả thù…
Tôi gật gật đầu đồng tình rồi cười hí
hí.
* Một chai nước lọc nhỏ bán trong máy,
trung bình ở Mỹ 1 dola. Ở
đất Phù Tang phải 4, đến 5 dola đó quý vị
ạ!
* Đến Nhật mà quý vị đi taxi sẽ bị phá sản
ngay! Tại sao mà bi quan
qua vậy nè? Không phải bi quan đâu, vì
đi Taxi khoảng đường dài chừng 25
cây số thôi. Thần hoàng thổ địa ơi, tối
thiểu bạn phải trả 300 dola!
Các thứ khác cũng thế đó, như là: quần,
áo, tơ, vải vóc, giầy vớ, xách
tay, đồ chơi bằng nhựa của trẻ con… Giá
cái nào cũng cao ngất tận chín tầng
mây! Trong đoàn du lịch của chúng tôi,
bà nầy kêu mắc, bà kia chê ỉ chê ôi...
Nhưng rồi cũng có người mua... Và miệng
họ cười tươi như hoa xuân mới
nở và sang tinh sương, bảo:
- Nó tuy mắc thiệt! Nhưng quý ở chỗ là vật
kỷ niệm!
Có bà đứng sau lưng tôi, nhỏ giọng:
- Xì, quý cái con khỉ đột! Quý thì bà
mua đi, cho chồng bà xách về
nặng né thở. Thiệt là điên mà “Đắc đồng ế
chợ” về bên Mỹ y chang, cùng
hiệu mua phải rẻ hơn nhiều... Bộ “cày”
ra tiền không mệt sao, thiệt tình, biết
mắc mà còn mua…
Tôi cũng gật đầu cười và nói nhỏ chỉ đủ
cho bả nghe:
- Bả nói đúng thật mà! Là vật kỷ niệm,
xa xôi quá sau nầy chắc khó
có dịp trở lại đây mà mua...
Có những chuyện, nói ra thì tôi cảm thấy
hổ ngươi, nhưng nếu cười,
thì nước mắt tôi sẽ chảy ròng ròng đấy
quý bạn ơi! Số là tôi vốn thích ăn vặt
hơn ăn bữa cơm chánh. Dân ruộng như tôi
ưa ăn mấy thứ như: hột bí rang,
chuối chiên, hột điều, kẹo, khoai lang nấu,
chuối nướng, trái cây tươi... Bởi
Nam Kỳ Lục Tỉnh nổi tiếng trái cây tươi
ngon và nhiều nhứt trong 3 miền
đất nước của chúng ta. Thấy hột dẻ nướng
(chestnut) hột nào hột nấy lớn
bằng ngón chân cái. Họ đã luộc chín rồi,
mới đem nướng và tách vỏ sẵn, chỉ
còn cái ruột, màu ngà ngà nằm phơi phới
trong thùng kiếng, và mùi ấm
phảng phất gợi thèm trong cơn gió hắt
hiu lành lạnh của buổi chiều vàng thoi
thóp nắng!
Thật là hấp dẫn vô cùng quý vị ạ! Tôi
bèn dừng lại, dở hầu bao trả tiền
là 550 yen/100gram, lúc bấy giờ bao
nhiêu tiền Nhật đó, tương đương với 5
dola 50 cents Mỹ. Cầm bao hạt dẻ lên sao
nghe nó nhẹ hều hà, tôi liếc qua
liếc lại không thấy ai nhìn mình, vội mở
bao hột dẻ ra đếm!
- Trời đất quỉ thần, thiên la địa võng
ơi!
Chỉ thốt ra được bấy nhiêu đó thôi! Tôi
trợn mắt trắng dã, mặt chừ bự,
nhìn ông xã tôi lầm bầm:
- Đồ mắc toi, phải biết trước như vậy
thì không thèm mua! Thật
không có cái xứ nào bán mắc thấu xương
như xứ Phù Tang nầy cả.
Phu quân tôi cười hì hì, “dớt ngọt” chọc
quê vợ:
- Em phải ăn nhín nhín, ăn từ từ nghe
không! Chớ 1 dola 20 cents/1
hột đó! Nhưng em phải vui mừng mới đúng,
vì cái biệt danh “Bà Tư Kẹo”
của em từ thời son trẻ... sẽ đươc xóa bỏ
sau khi mua hột dẻ nầy rồi... Nên
không mắc đâu, mà xứng đáng lắm em ơi…
Tôi liếc xéo ổng, rồi nhoẻn miệng cười
như mếu!
Nhật Bản đất hẹp, người đông nên nhà cửa
nhỏ, san sát nhau. Mỗi
chung cư cái nào cũng có mấy chục tầng.
Cầu bắc trên cao, cầu bắc dưới
thấp, cầu bắc ngang sông... cho xe chạy
xuôi, chạy ngược chiều với nhau.
Cầu nầy bắt chồng trên cầu kia. Cầu chằng
chịt thay đường cho xe chạy
ngang qua eo biển... cầu bắt từ đảo nầy
qua đảo kia… Các thành phố lớn,
các chợ bán hàng ở tầng 1 tầng 2, tầng
3. Thường ở tầng lầu thứ 4 là các
quán ăn, nhà hàng… Vì các thành phố lớn,
nhỏ của Nhật được xây cất trên
những hòn đảo!
Khi còn thiếu thời sống chung với cha mẹ,
anh chị em, tôi là đứa nổi
tiếng kén ăn nhứt nhà. Và bây giờ tuy có
nhiều tiến bộ, thay đổi…. nhưng
thú thiệt, món ăn của Nhật không hợp khẩu
vị với tôi chút nào!
Món su-si bổ dưỡng mà người Nhật ưa
thích. Và mỗi lần đi nhà hàng
có món cá, tôm… sống ăn kèm với sa-bì…
Các con và phu quân tôi ăn ngon
lành, ăn say sưa, ăn còn chắc lưỡi hít
hà khen lấy khen để… ăn nhiều như
ma đói! Nhìn họ ăn cá tôm, ốc, sò không
nấu chín, tôi cảm thấy ớn xương
sống và cái miệng lạt nhách!
Mọi thứ bán ở các chợ như là: Tôm, cá,
thịt, rau, cải, đậu, bầu, bí, trái
cây… của Nhật tuy mắc, nhưng vệ sinh tối
đa. Họ đã rửa sạch, lựa bỏ những
thứ hư, thứ úng… Còn lại đem bán là những
thứ sạch sẽ, tươi ngon, đựng
trong bao ni-lon hàn kín, chúng ta mua về
để nấu, hay ăn sống ngay, không
cần phải rửa lại (nếu không muốn).
Người Nhật nói chung rất lịch sự, từ ăn
mặc sạch sẽ, tươm tất, nói
năng nhỏ nhẹ, êm dịu, ngọt ngào… Cho dù
là những người buôn bán cũng
vậy. Tôi chưa thấy họ bán hàng thách
giá, khách ghé vào tiệm xem hàng, dù
biết khách không mua, họ cũng tiếp đón
niềm nở vui vẻ, tươi cười, lịch sự...
Chớ không tỏ vẻ khó chịu, đốt phong
long, hoặc chửi đổng khách không
mua, khi vừa quay lưng bước qua gian
hàng khác...
Chợt nhớ đến Việt Nam mà nghe não lòng!
Trước 30 tháng 4 năm
1975 sự giáo dục quá tồi tệ của chế độ Cộng
sản mấy mươi năm từ miền
Bắc... Sau 30 tháng 4 năm 1975 tràn qua
dòng song Bến Hải vào Trung,
Nam... Cả nước Việt bây giờ còn gì để nhớ...
để thương... để về thăm?
Bỗng có tiếng chê bai cố tình cho mọi
người nghe của một ông xồn
xồn trong đoàn, khiến ai cũng quay sang,
và nhìn theo tay ông chỉ.
- Quý vị xem coi, nước Nhật nổi tiếng
văn minh, giàu... thế nầy mà
còn có những kẻ ngồi trên xe tay, cho
người ta nai lưng ra kéo? Thiệt trông
kỳ cục quá chừng đi thôi...
Rồi một bà phụ họa:
- Ờ hén kỳ quá! Ai để cho người khác kéo
mình ngồi, ở giữa chỗ
đông người, toàn là thành phần du khách
đến từ khắp nước tân tiến trên thế
giới, trên thành phố thuộc Tokyo cao sa,
sang trọng như thế nầy... Thật là
khó coi quá đi thôi!
Đúng như vậy, nơi đây là trung tâm của
thành phố, phồn thịnh, phô
trương cái giàu, sang, và đep. Hầu hết
những người qua lại trên đường, là
những du khách. Tôi cố tìm kiếm, nhưng
không thấy xe hơi hay xe gắn máy
chạy trong khu nầy. Phải, nơi đây ngoài
người đi bộ thì chỉ có xe kéo!
Tôi dõi mắt nhìn theo những phu xe kéo của
người Nhật. Có kẻ đang
đứng vịn hai càng xe với tư thế chờ
khách. Có người đang kéo xe, và có
người dừng lại cho khách xuống, khách
lên xe kéo… Nhưng tôi ngạc nhiên
và lấy làm lạ khi nhận thấy những phu xe
nầy, y phục của họ khác thường
hơn những người dân bản xứ, đang qua lại
trên đường.
Phu xe kéo, đa số là những người trong lứa
tuổi thanh niên, những
người đàn ông trẻ. Họ có thân hình cao lớn,
da dẻ hồng hào, khỏe mạnh, mặt
mày rạng rỡ luôn nói cười tự nhiên vui vẻ.
Trong ánh mắt họ, tôi không tìm
thấy có vẻ gì ái ngại, hay mệt nhọc với
công việc kéo xe... Với đôi tay gân
guốc, rắn chắc, họ gò lưng kéo người ngồi
trên xe... Họ chạy bon bon với hai
chân vững, gọn gàng, lanh lợi... Họ
thành thạo, rành rọt luồn lách tránh né,
người qua lại trên đường phố vào trọng
điểm trưa chan hòa ánh nắng và bộ
hành qua lại thật đông, rất đông...
Tiết trời hôm nay dù nắng, nhưng rất dễ
chịu vì Nhật Bản đã vào
chánh mùa xuân. Trên thế giới rất nhiều
nước một năm có bốn mùa: xuân,
hạ, thu, đông, riêng nước Nhật có thêm
mùa mưa (hai tháng). Tôi ngẫm
nghĩ, những phu xe kéo nầy, kéo xe bằng
chân tay mà nếu đem ra so sánh,
xe kéo nầy sẽ chạy nhanh hơn những chiếc
xe xích lô đạp, hay chiếc xe lôi
đạp, trên quê hương mình thuở trước...
Sự trang phục của phu xe kéo Nhật trông
lạ mắt và hay hay. Họ mặc
toàn màu đen viền một vài nơi trắng. Có
người ở trần phơi những bắp thịt
vai, tay, chân... rắn chắc chứng tỏ những
phu xe kéo nầy thường xuyên tập
luyện thể thao, thể dục hay tập tạ… Họ mặc
quần ngắn, ống hơi bó, dây thắt
lưng bằng vải, bảng lớn che thắt eo nơi
bụng. Có người thì khoác chiếc áo
tay rộng dài, tay lở, cổ bà lai bản lớn
cột choàng qua bên hông. Đầu họ đội
nón rơm màu xám đen đương rất khéo. Nếu
ai không đội nón, thì tóc họ
được cột bằng dây màu, và chân mang dép
rơm. Nói tóm lại, những người
Nhật kéo xe ở đây, ăn mặc, trang sức
theo lối cổ truyền từ thời xa xưa.
Chiều về, xuống lấy nước uống, gặp một
nhân viên làm việc ở văn
phòng khách sạn, tôi dọ hỏi.
Cô ta cho biết (tôi không chắc có đúng
không?).
“...Những phu kéo xe đó, khó khăn lắm mới
được tuyển chọn vào làm
nhân viên kéo xe. Họ hãnh diện được kéo
xe để giữ truyền thống từ thuở xưa
là muốn nhắc nhở dân trong nước, và ngầm
cho người ngoại quốc đến thăm
biết rằng: Đất nước Nhật Bổn, được như
ngày nay là nhờ công khó, tận tụy,
chịu cực, chịu khổ của người đời trước,
mà người đời sau phải học hỏi, mở
mang kiến thức… Để nước Nhật hôm nay có
những chiếc xe chở hành
khách đường xa, hiện đại, dài, rộng, đẹp,
đầy đủ tiện nghi, chạy rất nhanh,
hơn 300 cây số/1 giờ mà họ gọi là
“Bullet Train...”
Đúng như vậy, đoàn du lịch của chúng tôi
lên xe ở trạm nầy. Đến 15
phút sau, xuống ở trạm kia. Ông Tài xế
đưa đón đoàn du lịch của chúng tôi
từ trạm lên, xe thường phải chạy xe cà-rịt
cà-tang, mất gần 2 giờ mới đến
trạm cúng tôi xuống để đón.
Ngoài ra tình thần Quốc Gia của người Nhật
rất cao. Cả nước Nhật
không nhận tiền của nước khác trong việc
buôn bán. Thí dụ như Dola của
Mỹ, baht của Thái Lan, Euro của Âu Châu…
Dù cho việc buôn bán đó có lợi
cao, hoặc có người mua rất nhiều hàng
hóa thu hoạch nhiều lợi ích… Nhưng
nếu người mua không có tiền Nhật, thì chịu
thôi, họ sẽ không bán...
Trong khi chờ xe đến đón ở trạm vừa mới
xuống, người hướng dẫn
cho biết, chúng tôi có thể vào thăm khu
chợ nơi trạm chúng tôi vừa mới
xuống xe.
Đây là những dãy phố lầu rộng, lớn, cao,
dài hằng cây số có nhiều
tầng tầng. Mỗi tầng có ngăn riêng biệt từng
căn cho mỗi chủ bán buôn hàng
hóa của mình. Tôi đi vào khu hàng quán
ăn, những món ăn trong mỗi quán,
đều được bày ra rõ ràng, tùy theo từng
món. Thí dụ như:
Mì xào gồm có những gì, và đúng màu sắc
của nó. Cọng mì vàng, cải
màu xanh cắt khúc, dưa leo xắt sọc dưa,
giá trắng, thịt hường, tôm đỏ…
được bày trên dĩa. Hủ tíu được bày trong
tô, cơm bày trong dĩa, trong chén,
nước uống bày trong ly… Và tất cả những
món ăn bày ra đó là bằng ni long
(bằng nhựa) để trong tủ kiếng trước các
quán ăn, cho khách hàng thấy và
biết. Khách hàng muốn ăn món gì, cứ chỉ
vào món đó là có ngay, rất tiện lợi
cho những người ngoại quốc không biết và
nói được tiếng Nhật...
Tôi được biêt người đàn ông Nhật có lệ,
cứ mỗi độ chiều sau giờ tan
sở, và nhất là những chiều cuối tuần. Họ
la cà ở các quán ăn lớn sang trọng,
đắc tiền cho người làm lương cao dù họ
không có tài chánh dồi dào chi dụng
cho gia đình(?) Quán nhỏ vừa túi tiền
cho người bình dân… Và quán nào
cũng dập dìu khách hàng. Những người
khách ăn mặc đồ lớn (suit) màu đen,
chỉnh tề, từ đàn ông cũng như phụ nữ. Và
họ luôn xách cặp-táp đen kè kè
bên hông. Như nhân viên làm việc ở văn
phòng... Thấy gần như tất cả mọi
người dân bản xứ đều có lối ăn mặc như vậy,
tôi bèn hỏi nhỏ người hướng
dẫn ngồi kế bên, trong lúc chúng tôi rổi
rảnh.
Cô ta mỉm cười vui vẻ, nói chung để mọi
người cùng nghe:
- Người dân ở Nhật, giàu hay nghèo, có
công ăn việc làm hay không,
làm công nhân hay kỷ sư, bác sĩ... khi
bước ra khỏi nhà họ luôn ăn mặc
tươm tất như vậy. Ở đây không phải ai
cũng có xe riêng để đi, phương tiện
di chuyển tốt nhứt, và thuận lợi là xe
đò (xe bus) đưa khách trong thành phố,
và các vùng lân cận. Vào những giờ đi
làm việc, tan sở xe bus chen chúc
những người, nên chỗ ngồi thiếu... vì vậy
một số người phải đứng. Hành
khách đứng luôn có một chỗ nắm nào dây nắm
hay cái nắm để giữ thăng
bằng khi xe di chuyển, khi xe ngừng lại,
hoặc xe thắng gấp... Những tay nắm
có từ trên mui xe thòng xuống, hay những
cây ngang, hoặc những cây dựng
đứng trong xe...
Cô hướng dẫn khi nói đến đây dừng lại,
phóng mắt nhìn trời cao có
mây màu xám đục gợn hồng, xanh, tím... của
nắng hoàng hôn mà mặt trời
còn treo lơ lửng nhưng bị khuất sau những
dãy nhà cao...
Rồi mỉm cười e thẹn trông rất dễ thương,
cô bảo:
- Nếu dùng một tay để nắm, còn tay kia ở
không mà sờ bậy thì phiền
lắm! Cho nên họ luôn luôn cái túi xách
nhỏ hay cái cặp táp ở tay kia như quý
vị đã thấy... Và tại sao đa số những người
đàn ông Nhật sau giờ tan sở, ít khi
về nhà ngay? Vì họ lo ngại chòm xóm sẽ
nghĩ và chê bai là họ bị vợ kềm
kẹp, hoặc, làm ít lương ba đồng ba cộc,
nên không đủ xài, hoặc là những
người bủng xỉnh keo kiết không ăn uống
hay nhậu nhẹt trưóc khi về nhà...
Tại sao? Vì họ muốn cho những người ở
lân cận, chòm xóm sẽ có ý nghĩ là
những người nầy làm việc ở cấp cao có
nhiều lương, nên sau giờ làm việc
thì hay ở lại để họp hành, tiệc tùng xã
giao... mới trở về nhà trễ… như vậy!
Thường ngày, nếu người đàn ông trong gia
đình đi làm việc về đúng giờ, thì
các ông chồng sẽ mắc cỡ... và các bà vợ
cũng sẽ mất phần hãnh diện về
chồng mình với xóm diềng.
Nghe cô hướng dẫn giải thích. Tôi thở
ra, mỉm cười lắc đầu! Cô ta mở
to mắt ngạc nhiên nhìn tôi, hỏi:
- Bà nghĩ thế nào, và tại sao bà cười?
Không trả lời cô vội, mắt tôi mơ màng
nhìn lên không trung. Nền trời
Nhật hôm nay xanh xám, xa xa đùn một vài
cụm mây trắng. Nắng lụa của
buổi hoàng hôn vẫn còn le lói sáng trải
trên vạn vật. Gió phất phơ lành lạnh,
cái lạnh dễ chịu trên đất Phù Tang, làm
cho tâm hồn người phơi phới, tươi
vui, khi bắt gặp những chùm hoa anh đào
nở sai cành, toàn một màu hồng
nhạt, màu trắng gợn hồng, hoặc màu phơn
phớt tím…
Cô Florence Tham (người Nhật gốc Tàu là
hướng dẫn viên của hãng
Travel Grant Holidays. Phụ trách đưa
đoàn chúng tôi thăm viếng suốt những
ngày ở Nhật. Cô có giọng nói nhẹ, ngọt
và líu lo như tiếng hót của chim sơn
ca. Cô nhìn tôi như hối thúc và thân thiện
chờ đợi câu trả lời:
- Bà nghĩ thế nào, thưa bà Dư?
Không thay đổi sắc diện, tôi cười nhẹ
nhìn sâu vào mắt cô:
- Mấy mươi năm trước, khi còn học ở
Trung học, nghe người bổn xứ
đã nhận xét chung và nói rằng: “Ăn cơm
Tàu, ở nhà Tây, cưới vợ Nhật”.
Lúc đó tôi nghĩ rằng những người ở nước
chúng tôi nói chơi trong lúc suông
miệng thôi. Hôm nay nghe cô kể, tôi nghĩ
những người đàn ông nước tôi
khen phụ nữ Nhật thật chớ không có sai
chút nào cả... Cô hỏi tôi nghĩ gì về
người chồng, sau giờ tan sở la cà ở các
quán rượu đến khuya mới về... thì vợ
mới hãnh diện với chòm xóm?
Tôi ngừng nói, thở nhẹ rồi tự nhiên, bảo:
- Tôi xin trả lời với cô rằng: Tôi không
hãnh diện chút nào hết cô ơi,
vì tôi không phải là một phụ nữ Nhật!
Còn cô thì sao, Florence?
Florence cười nhẹ, nhìn tôi:
- Tuy tôi không phải người Nhật hoàn
toàn, nhưng tôi ở đây từ thuở
nhỏ nên về văn hóa, phong tục, tập quán ở
xứ nầy ảnh hưởng tôi rất nhiều.
Nhưng chúng tôi là lớp người trẻ, nên
bây giờ có cuộc sống cởi mở hơn.
Chúng tôi không còn bị ràng buộc khắc
khe bởi những thói quen, hay tập
quán quá lỗi thời xa xưa nữa...
Ở Nhật có những người không nhà
(homeless). Họ ngủ dưới gầm cầu,
ngủ trước mái hiên những nơi từ thiện,
nhưng Nhật không có người xin ăn!
Những người không nhà đó, họ sống đùm bọc
lẫn nhau. Sáng sớm đi lượm
lon, vỏ chai, báo cũ, đi lượm cá, rau, cải…
họ làm tất cả những việc gì có thể
làm được để kiếm sống, mà không phạm
pháp. Họ xấu hổ ngữa tay xin tiền
người khác, mặc dù Chánh phủ không giúp
gì cho họ (theo lời hướng dẫn
đoàn du lịch), họ giữ gìn tắm rửa sạch sẽ
như người bình thường. Chúng ta
không thể nào phân biệt những người vô
gia cư nầy với người bình thường
khác... Những hộc tủ có khóa ở các chợ lớn
cho mướn là nơi họ gởi áo quần
và những tư vật quý giá... Người hướng dẫn
du lịch còn cho chúng tôi biết:
“Những người vô gia cư nầy, trước kia có
kẻ là chủ các hãng xưởng bị phá
sản. Có kẻ là những nhân viên cao cấp,
có trình độ học vấn cao… Họ mất
việc… vì tự ái nên bỏ nhà đi luôn… Có
người không chịu nổi hiện thực tự
vận chết! Mà đa số họ đi theo những kẻ
không nhà…”
Thật sự những ngày ở Nhật, tôi không thấy
người xin ăn ở đầu đường,
góc phố, hoặc tụ tập lại những nơi có
môi trường thích hợp để kiếm sống...
Như ở các sân chùa chiền lớn, bến xe
tàu, chợ... các nơi công cộng có nhiều
kẻ thập phương thăm viếng giàu lòng từ
thiện...
Từ lâu tôi nghe những người đã đi thăm
nước Nhật về nói lại là Phú
Sĩ sơn khó thấy rõ, vì tuyết phủ quanh
năm, khí hậu lạnh lẽo, ẩm ướt nên lúc
nào cũng có sương mù. Cho nên vì thời tiết,
ít khi du khách được đến gần
chân núi… Chỉ thấy dạng núi xa xa, ảo ảo,
mờ mờ mà thôi.
Nhưng bầu trời hôm nay rạng rỡ. Mới tám
giờ sáng mà mặt trời đã lên
cao, trải ánh sáng tươi vui rực rỡ, và
phản chiếu lóng lánh những giọt sương
đọng trên hoa lá, khóm cỏ, chòm cây. Cảm
nhận được ngoại cảnh, đoàn
người lên đường thăm núi Phú Sĩ và những
phong cảnh khác... nên mặt mày
ai nấy tươi rói, lòng nôn nao vui vẻ như
mở hội, cùng nói cười rộn ràng khi
lên xe cho chuyến đi du ngoạn trong
ngày...
Xe chạy qua những khu rừng thưa cây xanh
mát mắt. Qua những cánh
đồng lúa, vườn cây ăn trái, những liếp rồi
rau cải xanh mượt chạy dài xa
nhìn ngút mắt... Thỉnh thoảng có những
trại nhỏ một mái che, hay hai mái
che rải rác bên đường... Trong trại,
trên những ngăn kệ vuông rộng nông dân
bày bán trái cây, rau, cải, bầu, bí,
dưa... Họ để trong từng bọc ni-long cột lại,
hay hàn kín lại, và cạnh đó có bảng để
giá tiền là bao nhiêu... Khách dừng xe
ghé lại mua, tự động lấy hàng rồi để tiền
vào rổ, hay để vào cái thùng mà
chủ đã để sát bên đó...
Rời xa đất Việt tôi chưa một lần trở lại
dù để viếng thăm ! Nhưng may
mắn được đi thăm viếng một số nước ở Âu
Châu, và Á... Nhưng những nơi
tôi đã đi qua gần như chưa gặp nước nào
bán hàng dọc theo đường vắng vẻ,
mà không người đứng bán, và thu tiền như
ở nước Nhật! “Thử hỏi trên thế
giới, có được nước nào như nước Nhật…”
Xe chạy bon bon, chúng tôi đã thấy dạng
những ngọn núi chất chồng.
Có cái cao, cái thấp, cái xoãi dài như
người đang nằm nghỉ ngơi. Người
hướng dẫn chỉ cho mọi người nhìn về hướng
núi Phú Sĩ...
Chị bạn ngồi kế bên khều tôi, bảo nhỏ:
- Phú Sĩ sơn đẹp quá hả chị? Thật là đặc
biệt.
Tôi cười, nhìn chị lí lắc chọc quê:
- Đặc biệt chỗ nào đâu? Chị nói cho tôi
nghe coi, sao tôi không thấy
gì hết trọi trơn vậy nè...?
Chị ta nguýt tôi cười, trả lời:
- Xì, chị không biết thì ai biết? Nhưng
chị nhìn xem xe chạy vòng
qua, vòng lại khi thì thấy núi Phú Sĩ ở
cạnh nầy, khi ở cạnh kia. Nhưng nó
vẫn đều đặng, tròn trịa vun chùn lên như
nhũ hoa của thiếu nữ “mười bảy bẻ
gãy sừng trâu” căng đầy sức sống…
Nghe chị thí dụ dí dõm, tôi bật cười ha
hả! Cả hai không nói lời nào,
nhưng như ngầm hiểu, rồi cùng gục đầu cười
rũ rượi, cười chảy cả nước
mắt... Bởi những người ngồi gần có thể
nghĩ: “Hai con mụ nầy chắc là có
lòng dạ tà gian chi đây? Cho nên sắp đến
núi linh thiêng thì cả hai bị quở,
nên đã tửng tửng rồi...”
Bỗng tôi ngưng cười, và reo lên với chị:
- À, tôi cũng tìm ra chỗ đặc biệt của
nó. Chị xem, tất cả các ngọn núi
gần Phú Sĩ sơn đều có màu xám đen, hoặc
xám mốc, và hãy nhìn kỹ coi tôi
nói có đúng không?
Chị gật gật đầu và chăm chú, nhìn theo
tay tôi chỉ:
- Chị thấy đó, núi Phú Sĩ có màu xám ở từ
chưn, lên gần đến lưng
chừng núi thì gần như không còn là màu
xám nữa. Núi Phú Sĩ ngã màu xanh
dương đậm, tươi mát. Chị hãy nhìn rõ
xem... sao, thấy tôi nói có đúng
không? Phần trên thì vun chùn có màu trắng
đục như vôi đó là tuyết trắng
đóng quanh năm. Tuyết phủ muôn đời và được
ánh thiều quang phản chiếu,
tạo cho Phú Sỉ sơn chói lọi, ngời màu
sáng xanh như bích ngọc thật tuyệt,
thật tuyệt quá! Trên thế gian có lẽ
chúng mình khó thấy được cái núi thứ hai
đẹp như vậy chị hả...
Dọc theo đường xe chạy qua, tôi nhận thấy
nước Nhật đất ít, dân lại
đông quá đông. Chỉ cần hai bên núi có chỗ
đất thấp, hơi bằng cho dù không
rộng lớn, cũng có nhà. Cho nên đường xe
chạy thường trên các cầu nầy nối
tiếp cầu kia nhứt là ở các thành phố lớn.
Chớ không phải xe chạy trên đường
lộ đá, hoặc xa lộ như những nước khác.
Chúng tôi đi thăm những núi lửa còn âm ỉ
hoạt động. Chỗ nước nóng
đọng lại luộc chín được hột gà. Nhưng
khoáng chất sẽ làm vỏ hột gà trở màu
đen thùi lùi... Du khách không chính tay
luộc hột gà, mà mua của những
người dân luộc sẵn bán ở đây. Nếu một nước
khác thì không tin được, nhưng
Nhật thì chúng ta có thể tin, hột gà do
nước nóng của núi lửa làm chín.
Xe chở du khách qua những cánh rừng
thưa, qua núi non hùng vĩ, qua
những bờ biển nổi tiếng của Nhật. Đoàn
chúng tôi đi thưởng lãm những di
tích lịch sử, những danh lam thắng cảnh
đã làm Nhật hãnh diện về mọi mặt
giàu, đẹp, của nhân tạo, của thiên nhiên
hùng vĩ...
Trên nước Nhật ngoài những bông hoa do
người trồng, được chăm sóc
cẩn thận để có hoa nở bốn mùa. Nhật còn
có những loại loa rừng, cỏ dại rất
đẹp dù ở nơi hoang dã. Và trong câu chuyện
nào đó, có người nhắc, hoặc hỏi
về nước Nhật có gì đặc biệt? Thì mọi người
đều biết, nước Nhật có Phú Sĩ
sơn. Chánh phủ Nhật khôn khéo đem trồng
tặng cho rải rác các nước trên thế
giới cả vườn hoa anh đào như ở
Washington Hoa Kỳ. Tạo thành ấn tượng
đẹp để khi nghĩ đến Nhật ngoài Phú Sĩ
sơn ra, mọi người đều biết ở Nhật
Bản còn có hoa anh đào. Gần như những
nơi công cộng, nhà cửa của tư
nhân, rải rác trên các phố xá, dinh thực,
công tư sở... khuông viên chùa, khu
trường học... khắp các nẻo đường trên nước
Nhật, nơi nào cũng có trồng cây
hoa anh đào.
Hoa anh đào có nhiều loại: Loại có cánh
hoa lớn, nhỏ, cánh dầy, cánh
mỏng, loại hoa nở bao chung quanh cành,
nở từng chùm trút xuống… Cùng
nhiều màu sắc: hồng nhạt, trắng, tím tái
(như màu lá cẩm), hồng phấn, trắng
hồng… Hoa anh đào nở sớm hay muộn là tùy
theo thiên nhiên về thời tiết
nóng lạnh của mỗi vùng.
Những cây anh đào mọc lẫn lộn trong cỏ
cây trên những cánh rừng
thưa, những rặng núi chập chùng ngọn nầy
nối tiếp ngọn kia. Núi đồi có cái
cao, cái thẩp của núi có màu xám da chuột,
có cái màu xám tro nhạt, có cái
màu xám đậm… Tất cả nằm mơ màng dưới ánh
nắng hồng tươi lơi lả theo
ngọn gió đùa trải dài lên những cành hoa
anh đào màu sắc rực rỡ, nở rộ chen
trong đám cỏ, cây rừng đẹp hơn những bức
tranh thêu hoa, bỏ màu tài tình
nổi tiếng của phụ nữ ở Tô Châu (nước
Tàu).
Trước cảnh thiên nhiên như vậy, dù cho
người khó tánh đến đâu, cũng
không khỏi thầm khen và ca ngợi hoa anh
đào. Thì nói chi đến những cây
hoa anh đào được trồng kế mái hiên,
trong sân, dọc theo hàng rào thâm
nghiêm của chùa, có những cành hoa phơi
phới, màu trắng phau phau lung
linh trong gió trong nắng lụa. Ngoài ra
trong khuôn viên khu đại học, trước
các thánh đường, giáo đường, trong đền
đài cung điện của vua chúa toàn là
hoa, là hoa, là hoa anh đào...
Vào mùa xuân, đi đến đâu chúng ta cũng
thấy hoa anh đào. Màu sắc
hoa thật kiêu sa dưới trời quang đãng
trong buổi sáng mai, còn mờ màn
sương sớm. Hay trong buổi trưa ngập ánh
thiều quang, hoặc trong buổi
hoàng hôn mặt trời ngã bóng, chiếu những
tia nắng màu sắc rực rỡ, rồi tắt
ngấm nhường cho vầng trăng ngạo nghễ
vươn cao. Hoa anh đào tắm trong
ánh trăng sáng dịu dàng, tăng thêm phần
đẹp xinh, và thanh thoát...
Người Nhật còn trồng hoa anh đào bên những
bờ hồ. Họ trồng dọc
theo hai bờ những của con kinh đào dài
hun hút. Dưới dòng kinh nước trong,
xanh biếc chảy lững lờ. Những chiếc du
thuyền đưa khách thường lãm, được
che mát bằng những nhánh, những cành, những
cội hoa anh đào từ hai bên
bờ đang khoe sắc thắm gie ra che bóng
mát. Những chiếc du thuyền trang
nhã đó do người chèo, bơi hay thả trôi
theo dòng nước nhàn nhã. Trên du
thuyền còn văng vẳng tiếng đàn, tiếng
sáo trầm bổng, du dương. Và còn có
bóng những kiều nữ mặc kimono có dáng điệu
nhẹ nhàng, xinh đẹp, giọng
nói thỏ thẻ như gió thoảng, như chim hót
… Tạo cho hoa anh đào đã đẹp còn
có phong thái cao sang.
Ngoại ô có những khu vườn, trồng toàn
cây anh đào rộng lớn hàng
mấy mẫu. Vào mùa những ngày hoa nở rộ,
dân bổn xứ đến đây từng đoàn
đông người. Từng hộ gia đình để giải trí
sau những ngày làm việc vật vả lao
tâm, tổn sức. Họ ngồi dưới gốc hoa anh
đào uống rượu sa-kê, ngắm hoa,
hàng huyên, ngâm thơ, ca hát… Những người
đàn ông Phù Tang thường
mặc áo quần theo lối cổ truyền, phụ nữ
thường mặc Kimono.
Những cảnh sắc trên, đã tạo du khách có ấn
tượng đẹp về hoa anh đào,
trong mỗi lần có ai nhắc đến.
Dưới nắng xuân ấm, gió xuân mơn mang làm
cho tâm hồn viễn khách
thêm bồi hồi xúc động, tôi chụp mấy tấm ảnh
dưới cội hoa anh đào ở Osaka
Castle để làm kỷ niệm. Phu quân tôi
không kềm được nỗi trào lòng trước
cảnh đep và hùng vĩ của núi non. Cùng những
cây anh đào cành đầy những
chùm hoa mới nở, dưới bầu trời trong. Có
lác đác những cánh hoa rơi lao
chao, rồi bay bay trong nắng gió xuân hồng...
Xúc cảnh sanh tình, ông khe
khẽ ngâm mấy câu thơ của Thôi Hộ: “Khứ
niên kim nhật thử môn trung/
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng/ Nhân
diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y
cựu tiếu đông phong”.
Nhưng nầy bạn ạ, trong lòng tôi dù cây
anh đào của Nhật có hoa đẹp
trong hoàn cảnh nên thơ, hữu tình...
nhưng nếu gặp một đám mưa rào đi qua,
thì cành hoa tan tác rơi đầy mặt đất chỉ
còn lại cây cành trơ trụi đìu hiu... Và
hữu dụng của cây anh đào làm sao sánh bằng
bằng cây ô môi hoa ô môi có
màu tim tím đẹp, trái ô môi đế thời gian
dài chín ăn ngọt. Trong y học cơm
của trái ô môi đem ngâm rượu uống trị hết
nhức mỏi, sưng khớp, thoa lên
chổ ngứa trên da hết nhanh chống. Vả lại
màu sắc hoa anh đào không đẹp
bằng hoa ô môi của quê hương Miền Nam nước
Việt tôi. Nhứt là ở trên bờ
những sông rạch, ao bàu, những con kinh
vùng Đồng Tháp Mười, miệt Sa
Đéc, hướng về Cao lãnh, Mỹ Tho...
Trên dòng sông Cửu Long dài hung hút ở Mỹ
Thuận có đò đưa rước
xe, đưa rước hành khách sang sông, vào
mùa nở rộ, hoa ô môi theo cơn gió
rơi rụng trôi tím cả dòng sông... khiến
tôi không khỏi trào lòng lẩm bẩm đọc
mấy câu thơ:
“.....................................
Rời xa chốn cũ đã bao năm
Náo nức tình quê trở lại thăm
Ngắm lá me bay đường thình sử
Ngày xanh ơi! Đẹp tợ trăng rằm
Hai bên Lộ Bốn, vườn mênh mông
Bông ô môi trôi tím dòng sông
Lâng lâng trong gió hương đồng nội
Ngọt nước phù sa mát ruộng đồng
.............................................................”
Nhưng trước những cảnh sắc hiển hiện thi
vị, tao nhã... thêm phần
khéo léo của bàn tay nhân tạo. Thì hoa
anh đào của xứ Nhật Bổn làm sao
không đi vào lòng người, cũng không làm
sao không có những huyền thoại
đẹp, làm nổi tiếng khắp nơi trên thế giới,
khiến mỗi năm có bao nhiêu triệu,
triệu người không kể đường xa đến Nhật
thưởng lãm hoa anh đào, chiêm
ngưỡng những di tích lịc sữ và tài năn
tân tiến vượt thời gian và không gian
của người Nhật Bổn....
Du khách của đoàn chúng tôi còn được tắm
“hot spring soaks”. Chúng
ta cứ gọi nôm na là tắm hơi. Vào tối sau
khi ăn, trước lúc đi ngủ ở những
khách sạn đặc biệt thường có phòng riêng
để tắm hơi. Hoặc sáng sớm trước
khi đoàn ăn sáng để khởi hành đi du ngoạn.
Nhưng trong suốt 8 ngày, đoàn
du lịch của chúng tôi chỉ được tắm hơi 2
lần khỏi trả tiền. Với người Nhật
bơi lội, tập thể dục, thể thao... tâm hồn
thư thả, để cường thân kiện thể ở tuổi
trẻ và rất cần thiết cho người ở tuổi
hoàng hôn...
Nắng mai trải lên hoa lá, cỏ cây lung
linh những giọt sương đêm còn
đọng. Trên tầng lầu thứ 15 nhìn xuống,
tôi bồi hồi xúc động trước vùng
Kobe qua trận động đất năm xưa! Mà truyền
thông, báo chí một thời đã
khóc, đã nói đến cái đau chung của nhân
loại! Trận thiên tai lớn đó đã tàn
phá gần hết thành phố Kobe. Và khoảng
6,000 người bị chôn vùi trong trận
động đất khủng khiếp ghê gớm nầy!
Hôm nay, tôi đến thăm Kobe là một thành
phố trẻ. Một thành phố mới
được xây cất, được dựng lên hiện đại
nguy nga, và tráng lệ hơn xưa. Kobe
sản xuất rượu Sake, bò Kobe (Kobe beef)
được nuôi bằng bã rượu Sake. Thịt
bò Kobe mềm mại nổi tiếng đó đây là
ngoài ăn bã rượu Sake ra, một phần
chúng đã bị tra tấn (đánh đập cho mềm
mình) thường xuyên. Con bò bị dần,
mà người miền Bắc nước ta còn gọi là tẩm
quất. Nên thịt bò Kobe có màu đỏ
sặm, mềm, béo, không nhão.
Du khách đoàn chúng tôi đến ngày cuối du
lịch ở Nhật, vào buổi ăn
chiều, ngoài những món bình thường được
ăn tự do, mỗi người chúng tôi
được đãi 2 miếng thịt Kobe beef. Mỗi miếng
bề ngang bằng 2 ngón tay (của
người ốm kẹp lại), dầy chừng 1 phân, dài
chừng 1 tấc. Ai muốn thêm phải
đặt 4 giờ trước khi ăn. Mỗi 200 gram là
90 dola (tính theo tiền Mỹ hiện tại
thuở đó) Như vậy 1/kg thịt bò Kobe phải
450 dola Mỹ. Mèn ơi, tính ra tôi
phải làm nửa tháng có giờ phụ trội mới lảnh
được số tiền mua một kí (1 kí
lô) thịt bò Kobe.
Vừa nghe cô hướng dẫn dứt lời về giá cả
của thịt bò Kobe, bà ngồi
cạnh tôi mở to mắt, trề môi, bẻ miệng,
vo vảnh:
- Xì, ăn vàng sao mà mắc thấu trời vậy?
Bộ họ tưởng bọn mình “sộp”
lắm, nên muốn cắt cổ mổ bụng người ta?
Thiệt là cái xứ đập đổ quá mà!
Tôi cười tiếp theo lời bà ta:
- Chớ họ có ngờ đâu mình là “trùm sò” hả?
Bà ta không hài lòng câu nói của tôi:
- Không phải “trùm sò” đâu! Tại vì tui
thấy không đáng đó mà!
Trên bàn ăn, vặn lò cho lửa thấp xuống,
tôi lấy 2 miếng thịt bò Kobe
để lên vĩ nướng một cách trịnh trọng và
cẩn thận. Vì nếu lỡ tay làm rớt, hay
nướng khét thì toi mất ít nhứt cũng 50
dola chớ bộ! Nướng vừa ăn được là
tôi gắp để vào dĩa cho phu quân tôi. Ông
đã thủ sẵn lon bia, chờ tôi nướng
xong là nhâm nhi ngay.
Tôi gắp thịt bò để vào dĩa, cười cười bảo
với chồng:
- Hai miếng thịt bò mắc lắm đó, phải thưởng
thức từ từ, coi nó ngon
ra sao mà mắc dữ thần ôn vậy nè!
Phu quân tôi chẳng nói rằng, cắt miếng
nhỏ thịt bò để vào miệng nhai
nhỏ nhẻ như cô dâu mới cưới ăn cơm bữa đầu
với họ nhà chồng! Mắt chàng
lim dim, hớp ngụm bia, rồi lại tiếp tục…
Tôi nóng ruột muốn nghe xem
chàng nhận xét thế nào về bò Kobe? Nhưng
hai thẻo thịt bò của tôi nướng
cũng vừa chín tới.
Tôi ngồi xuống chẩm rải cắt miếng nhỏ, để
vào miệng thử xem ra sao?
Vì từ xưa đến nay, vốn vĩ tôi không hảo
thịt bò. Định bụng thử một chút
thôi, sẽ tặng hết phần còn lại cho phu
quân mình.
Nhưng xin lỗi nghen! Tôi đã ăn hết rồi!
Vì thịt bò Kobe ngon vô cùng
kể! Ngon thật đó, tôi phải bắt chước
truyện phim Tàu, và nói không chút
ngượng miệng: “Ôi, thịt bò Kobe ngon quá
chừng chừng đi thôi! đúng là mỹ
vị, là cực phẩm thời nay của nhân
gian...”.
Kobe còn là nơi của người phát minh ra
máy “Karaoke”. Nghe thiên
hạ đồn rằng, vào năm 1971, do nhạc công
Daisuke Inoue (Tinh Thượng Đại
Hữu) chuyên đệm trống ở ngoại ô Kobe (Thần
Hộ, gần Osaka, phía Nam
Nhật Bản) đã nghĩ ra...
Mấy ngày ở Nhật tôi được ăn những món
ngon, vật lạ. Tôi được ngồi
ăn trên sàn gỗ, có bàn trước mặt, và hai
chân được thọt dưới gầm bàn như
người bổn xứ. Mà từ lâu tôi cứ tưởng họ
ngồi xếp bằng trên sàn nhà! Tôi
cười thầm và nghĩ, thiệt là mình là «con
nhỏ nhà quê» chính hiệu mà!
Mặc dù khẩu vị của tôi không thích hợp
những món ăn nấu và gia vị
theo kiểu cách nêm nếm của người Nhật
cho lắm. Nhưng phần ăn của mỗi
người Nhật, nếu chúng ta ăn và uống hết
thì no, và có đầy đủ các chất dinh
dưỡng. Nhưng riêng tôi không ngại ngùng
tâm tình với quý vị rằng. Tôi
được cha mẹ sanh ra vốn dĩ đã có “mình hạc,
xương cối đạp” rồi. Nên những
ngày du lịch ở đây, sau khi ăn không bao
lâu, thì tôi cảm thấy cái bụng của
mình lỏng lẻo quá chừng chừng đi thôi!
Dù ở Nhật cũng có pizza,
hamburger (Mc Donald), có bánh mì thịt
nguội… Nhưng mấy món nầy ở
đây có mùi, vị rất là khác biệt rất khó
nuốt trôi cho tôi... nếu có đi thăm Nhật
lần nữa, nhứt định tôi sẽ thủ theo mấy
gói mì là thượng sách !
Chúng tôi đi thăm viếng bảo tàng viện, đền
đài, cung điện của những
vị vua, những ngôi chùa cổ kính được xây
cất có hàng mấy trăm năm trước.
Thăm di tích lịch sử, thăm Phú Sĩ Sơn,
ngắm anh đào vào mùa hoa nở rộ. Đi
xem những phụ nữ Phù Tang mặc áo Kimono
và một ít thay đổi theo dòng
thời gian của lịch sử. Chúng tôi thăm
nơi làm rượu Sake. Đi thăm nơi sản
xuất và xuất cảng ngọc trai (hột bẹt).
Những viên ngọc trai sáng ngời ánh
hồng, ánh bạc, xanh đen, xanh xám, xám
trắng, trắng xanh, trắng tím… Mà
người Nhật lấy từ những con trai (đồng
loại sò, hến) thiên nhiên ngoài biển
cả, và những con trai được nuôi. Ngọc
trai cũng đắc giá lắm! Chỉ có 1 viên
ngọc trai mà 15 ngàn dola, 17 ngàn dola
là chuyện hết sức bình thường. Còn
một sâu chuỗi ngọc trai từ 10 ngàn dola
trở lên được bày nằm la liệt trong tủ
kính... Vì đó là nữ trang mà!
Những ngày thăm viếng Nhật, chúng tôi được
ngủ trong những khách
sạn tốt (4, 5 sao), đầy đủ tiện nghi và
hiện đại. Bàn cầu được gắn máy điều
hòa ngồi cho ấm, hay mát tùy ý mình điều
chỉnh. Có vòi nước tự động dưới
bàn cầu. Để chúng ta muốn rửa bằng nước
thay giấy…
Nhưng những nơi công cộng của Nhật chỗ
tiểu tiện phía phụ nữ luôn
ngồi chồm hổm. Ít khi có bàn cầu ngồi
cao như ở khách sạn. Thường thì các
phòng vệ sinh nơi công cộng không để giấy
vệ sinh (giấy mắc quá chăng?).
Mình phải biết, và luôn thủ sẵn giấy
trong túi áo. Chiều nào về khách sạn, tôi
cũng giặt bằng tay 2 ống quần ở phía dưới
(gần lai). Bởi quần mặc dù về
thay ra sẽ để chung và riêng trong bao với
những áo quần đã mặc rồi, nhưng
tôi vẫn ngại nó dơ hơn.
Khi ra phi trường về Mỹ. Nơi chờ đợi của
những hãng hàng không
ngoại quốc ra vào nước Nhật (không phải
những đường bay nội địa). Cầu vệ
sinh bên nữ phái, ngoài những bàn ngồi
cao, còn có chỗ ngồi chồm hổm!
Lấy làm lạ, tôi hỏi một bà Nhật lớn tuổi
làm vệ sinh ở đây? Thì ra, người
phụ nữ Nhật mặc Kimono, ngồi chồm hổm tiện
cho họ hơn loại cầu có bàn
ngồi cao.
Tôi đến Tokyo lần nầy với tánh cách du lịch,
với tâm trạng của một du
khách! Theo nhận xét của riêng tôi, nếu
đi du lịch ở Nhật mà tự túc (tự
mướn xe, tự mướn khách sạn, tự lái đi
ngoạn cảnh) như đi những nước khác
thì thật là không nên. Vì ở Nhật, mọi thứ
giá cả quá đắc đỏ!
Chuyến du lịch Nhật Bản 8 ngày, với tôi
thật thoải mái, thật hài hòa từ
ăn ở cho đến thăm viếng những danh lam
thắng cảnh. Thật xứng đáng với
phí tổn, mà chúng tôi phải trả trong những
ngày du lịch ở Nhật.
Theo tôi biết, rất nhiều hãng có đại diện
lo mọi thủ tục cho người đi
du lịch ở Nhật Bản. Những hãng du lịch lớn
có văn phòng đại diện đặt khắp
nơi. Muốn đi du lịch, chúng ta phải hỏi
thăm nhiều hãng. Chọn những hãng
du lịch tốt, giá cả phải chẳng và nhứt
là được vừa ý, thoải mái trong suốt
những ngày viếng thăm.
Trở về nhà không lâu thì Nhật Bản vừa bị
thiên tai kinh hoàng! Sau
trận động đất cấp 9.0 và bão nổi sóng thần
dâng cao hơn 4 mét, vào ngày 11
tháng 3 năm 2011, tại 3 vùng Sendai,
Iwate, và Ibaraki. Gần như một phần
ba (1/3) nước Nhật bị tàn phá. Có khoảng
ba chục (30.000) ngàn người
thương vong và mất tích! Thế giới bàng
hoàng xúc động! Nỗi đau thương
còn đang xâu xé âm ĩ trong lòng người.
Thì vào thứ năm, ngày 7 tháng 4
năm 2011, lại thêm trận động đất 7.4 ở
vùng Miyagi, gần thành phố Tokyo!
Dĩ nhiên là nhân mạng và tài sản của Nhật
một lần nữa mất mát trầm trọng!
“Thiên tai xảy ra riêng trên một nước!
Nhưng đây là nỗi đau thương
chung của nhận loại” Ai cũng biết nước
Nhật là quần đảo, nên diện tích đất
đai nhỏ hẹp hơn so với những nước láng
diềng. Dân Nhật đông, sống chật
hẹp chen chúc trong những chung cư cao
nghều nghệu mấy chục tầng.
Đường sá ở Nhật xây cất chất chồng lên
nhau, chằng chịt như màng nhện…
mới cung ứng đủ cho nhu cầu đi lại, và
giao thông.
Nhưng dân Nhật có tinh thần trách nhiệm
rất chặt chẽ! Người Nhật
siêng năng, chăm chỉ, chịu khó, chịu cực,
học hỏi, cầu tiến… Để nước Nhật
ngày nay hơn hẳn nhiều nước trên thế giới,
hầu hết trong mọi ngành nghề
như: Kỹ nghệ, Kinh tế, Khoa học, Y tế, Kỹ
thuật… Dân tộc Nhật hãnh diện
có một nền giáo dục vững chắc, và về đạo
đức làm người!
Những người Cộng Sản nói chung, những
người Cộng sản cầm quyền
đương thời ở Việt Nam. Họ tự cho đảng Cộng
sản là “Đĩnh cao trí tuệ loài
người” Vậy không biết họ nghĩ gì, khi đảng
viên của họ lương lẹo, chôm
chĩa, gian lận khi qua làm việc ở Nhật?
Họ còn bán lãnh thổ, lãnh hải cho
Tàu... Đưa người qua trồng cần-sa ở
Canada, Anh, Mỹ… và thanh niên nam
nữ làm nô lệ lao động xứ người ở mọi
hình thức...
Tôi là “dân ngu khu đen” thời Việt Nam Cộng
Hòa. Sau khi Việt
cộng và Cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm miền
Nam, thì gia đình tôi đùm
túm chạy thục mạng để bôn đào… Đã mấy
mươi năm làm thân chùm gởi xứ
người! Tôi thật sự đau buồn lẫn xấu hổ!
Khi nghe thấy những tệ nạn gây ra
do Việt Nam Công sản ở trong nước, và ra
các nước khác trên thế giới…
Ba tôi là ông giáo già, lúc còn sanh thời,
thường bảo với con cháu
rằng: “…Phàm làm kiếp con người thử nghĩ
coi có được mấy ai sống đến
trăm tuổi? Mỗi ngày ăn được bao nhiêu? Mỗi
lần mặc được mấy cái quần,
cái áo? Khi chết mang theo được gì? Cho
nên chúng ta phải sống sao không
phiền mình, hại người. Ra đường thẳng
lưng ngưỡng mặt mà đi, nhìn nhật
nguyệt trên đầu không hổ thẹn, là đủ lắm
rồi”
Tệ xá Diễm Diễm Khanh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email: dtdbuon@hotmail.com
No comments:
Post a Comment