VỀ VÙNG CHIẾN-TUYẾN
Tôi bước
vào phòng-giấy của Chuẩn-Tướng* Huỳnh Thới Tây,
Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, với phong-thái điềm-nhiên nhưng tâm-trạng
bồn-chồn.
*Chuẩn-tướng:
tướng một sao.
Tôi đang làm việc ở Ngành Đặc-Biệt Vùng II, mà trụ-sở đóng tại Thành-Phố
Nha-Trang, thì nhận được một cú điện-thoại từ Văn-Phòng Trưởng Ngành
Trung-Ương, bảo tôi về gặp Chuẩn-Tướng Tây ngay.
Trong phạm-vi công-tác chuyên-môn, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương trực-tiếp
tiếp-xúc với tôi là một chuyện thường; nhưng, trong lĩnh-vực quản-trị
nhân-viên, việc Trưởng Ngành gọi tôi, lúc ấy là một Phó Giám-Đốc cấp Vùng, mà ở
Trung-Ương thì không qua Nha Tiếp-Trợ, và ở địa-phương thì không qua Trưởng
Cơ-Quan, là một chuyện bất-thường. Dạo đó, nội-bộ Cảnh-Sát Quốc-Gia đang
bị xáo-trộn vì nhiều đợt liên-tiếp thay bậc đổi ngôi, nên chuyện xuống chó hay
lên voi, dù không xảy đến cho mình, cũng khiến mọi người bàn-tán xôn-xao.
Từ lúc tôi nhận được lệnh ấy cho đến trước khi tôi bước vào phòng làm việc của
Tướng Tây, nhiều người đã phỏng-đoán với tôi về mục-đích của cuộc gặp-gỡ này;
tuy tất cả đều trấn-an tôi rằng đây là một việc vui, nhưng hầu hết đều không
dám chắc rằng đây không phải là một điều xui.
Tôi đã thầm tự kiểm-điểm sinh-hoạt của mình trong thời-gian qua, xem thử có gì
sai-trái, hầu chuẩn-bị tinh-thần mà đón nhận, nếu có, mọi sự chẳng lành.
Chính-Sách
Quân-Cách-Hóa*
Năm
1971, Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia của Việt-Nam Cộng-Hòa lại được cải-tổ; lần
này rõ-ràng là để chuẩn-bị cho tình-hình hậu-chiến Việt-Nam.
*Không
phải quân-sự-hóa hay quân-nhân-hóa.
Thêm nhiều sĩ-quan Quân-Lực được biệt-phái qua nắm giữ các chức-vụ chỉ-huy
quan-trọng trong Ngành Áp-Pháp. Trừ một thiểu-số có khả-năng, còn thì
đa-số đã không thạo việc mà không chịu học lại còn lợi-dụng cương-vị mới - có
quyền-hành trực-tiếp đối với dân-nhân - để làm lợi riêng cho
bản-thân, do đó, làm hại chung cho hoạt-động của cơ-quan trọng-yếu này của
Chính-Quyền. Tôi thấy trước hậu-quả bất-lợi cho chế-độ nói chung, nhất là
qua chính-sách quân-cách-hóa guồng máy này, nên đã gửi lên Trưởng Ngành Đặc-Biệt
Trung-Ương, hồi đó là Trung-Tá Nguyễn Mâu, một bức thư công-khai điều-trần
quan-điểm của mình.
Việc này xảy ra thì Trung-Ương cử trung-tá quân-nhân Nguyễn Văn Long đến Vùng
II giữ chức-vụ Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt thay-thế tôi, và giáng-chức tôi từ
Trưởng xuống Phó.
Trung-Tá Nguyễn Mâu phải phái Đại-Tá Đặng Văn Minh, Phó Trưởng Ngành Đặc-Biệt
Trung-Ương, ra Vùng II triệu-tập một cuộc họp nội-bộ các cấp chỉ-huy, để xoa
dịu tình-hình.
Sau ngày Hiệp-Định Paris 27-1-1973 được ký-kết và có hiệu-lực, chiến-tranh
Việt-Nam chấm dứt, đáng lẽ Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia phải là công-cụ đắc-lực
cho chính-quyền và dân-chúng Miền Nam trong công-cuộc đấu-tranh chính-trị trực-diện
với cộng-sản ở thời bình, thì Hành-Pháp Trung-Ương, trong tay các cấp nhà-binh,
đã chỉ xây-đắp Cảnh-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa thành một “con cọp... lười”.
Tính đến nay, số lượng quân-nhân biệt-phái từ đại-tá xuống đến binh-nhì đã tràn
ngập từ Trung-Ương xuống đến Xã Phường, nâng tổng-số nhân-số Cảnh-Lực Quốc-Gia
từ mấy chục ngàn người lên đến khoảng mười tám vạn người. Thời-gian sau
cùng, Thiếu-Tướng* Nguyễn Khắc Bình,
Đặc-Ủy-Trưởng Tình-Báo Trung-Ương, đã qua kiêm-nhiệm Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia,
đem theo thêm nhiều sĩ-quan cao-cấp Quân-Lực thay-thế hầu hết các viên-chức
Cảnh-Sát cao-cấp chuyên-ngành.
*Thiếu-tướng:
tướng hai sao.
Giai-đoạn đầu của chiến-lược Việt-Nam-Hóa đã qua một cách giả-tạo, và giai-đoạn
nhì đã đến trong tình-thế bấp-bênh.
Mỗi ngành nghề đều có những đặc-tính và quy-luật hoạt-động riêng của
mình. Nhưng Cảnh-Lực mà tổ-chức sao y theo Quân-Lực thì dư phòng-giấy,
thừa cạo-giấy, và thiếu việc-làm; và điều-hành rập khuôn theo Quân-Lực thì mất
thì-giờ, tốn nhân-lực, và phí hiệu-năng. Các bộ-phận phụ-dịch thì lấn át
chính-nghiệp. Guồng máy Áp-Pháp đã không bắt nguồn mà cũng không bám rễ
trong dân-nhân.
Tội tự thấy mình có nhận-thức đúng, như đã từng có nhận-thức đúng về các
biến-cố lịch-sử trước đây; và tôi đã biểu-lộ bằng cả lời nói lẫn việc làm
công-khai, trong khuôn-khổ trách-nhiệm và quyền-hạn có sẵn, cái nhận-thức
“cấp-tiến” và “quá-khích” ấy của mình.
Hồ-sơ nội-vụ còn nằm ít nhất là trong văn-phòng của Ngành Đặc-Biệt
Trung-Ương. Có thể là tôi sắp bị trừng-trị vì sự chống-đối kể trên?
Kế-Hoạch
“Cảnh-Sát-Hóa”
Có một điều lạ, là hầu như ít ai biết đến cái-gọi-là “Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa”, vốn
là một món quà hậu-Việt-Nam-Hóa mà người Mỹ thân tặng cho Việt-Nam Cộng-Hòa để
làm “quốc-sách” sau-chiến-tranh.
Các nhà lãnh-đạo Miền Nam chỉ miễn-cưỡng cho thi-hành Kế-Hoạch ấy một cách
qua-loa, tại một số Tỉnh, trong một thời-gian ngắn, rồi dẹp bỏ luôn.
Tôi đã tự mình kiếm được bản chính của Kế-Hoạch ấy bằng chữ Anh, đọc kỹ để có
ý-niệm chính-xác về ý-nghĩa và mục-đích chiến-lược của nó, hầu có căn-bản
lý-thuyết mà đối-chiếu với thực-tế thực-hành.
Tôi là người duy-nhất đã đến các Tỉnh như Ninh-Thuận, Bình-Thuận, v.v... thuộc
Vùng II, quan-sát và nghiên-cứu tại chỗ việc thi-hành Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa tại
Vùng này, sau khi Kế-Hoạch ấy đã được thử-nghiệm có kết-quả tốt tại Tỉnh
Gò-Công thuộc Vùng IV, và một số Tỉnh khác của Miền Nam.
Tại Trung-Ương, không có một bộ-phận đầu-não xứng-đáng, để đảm-trách nó.
Kế-Hoạch “Phụng-Hoàng”, vốn là một giai-đoạn của Kế-Hoạch
“Cảnh-Sát-Hóa”, không được hiểu đúng, nên các Trung-Tâm Thường-Trực, những khi
không có người Mỹ nhúng tay vào, chỉ là những văn-phòng ngoại-vi, tập-trung
tin-tức tình-báo đã nguội, và báo-cáo kết-quả hành-quân đã lạnh.
Những vấn-đề chiến-thuật nhất-thời, như: Trại Giam, mà dư-luận trong nước cũng
như ngoài nước chỉ-trích nặng-nề, vì chứa quá nhiều người và thiếu tiện-nghi;
Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn (ICCS), mà trong đó có hai
thành-viên cộng-sản Đông-Âu là Hung-Gia-Lợi và Ba-Lan; các Ban Liên-Hợp Quân-Sự
4-Bên và 2-Bên, mà trong đó có các thành-viên cộng-sản Việt-Nam (Cộng-Sản
Bắc-Việt Xâm-Lược và Cộng-Phỉ Miền Nam); v.v... đều thuộc phạm-vi chính-trị và
phản-gián, thì bị tách rời ra khỏi Ngành Đặc-Biệt là trung-tâm chuyên-môn về
các lĩnh-vực này.
Hơn nữa, các bộ-phận chủ-trì biệt-lập kia ở trung-ương thì không có cấp dưới
trực-hệ để chấp-hành chỉ-thị của mình tại các địa-phương.
Tôi không chịu nổi cảnh bế-tắc ấy trong công-vụ - sứ-mệnh
đa-diện của Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia đối với Quốc-Dân, chứ không phải
chức-năng phiến-diện của các cá-nhân nắm giữ chức-vụ chỉ-huy trên mặt
giấy-tờ. Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương thì không biết hết các nhiệm-vụ mà cấp
dưới đảm-trách ở các địa-phương; Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng thì hễ thấy gì có
dính-dáng đến cộng-sản, chính-trị, và quân-sự là giao khoán ngay cho Ngành
Đặc-Biệt tự lo.
Vì thế nên tôi quyết-định làm liều.
Tôi đã tự ý tổ-chức các đại-hội, tại các Tỉnh lớn và Thành-Phố quan-trọng, như:
Bình-Định, Phú-Yên, Khánh-Hòa/Nha-Trang, Cam-Ranh, Ninh-Thuận, Bình-Thuận,
Kontum, Pleiku, Darlac, Tuyên-Đức/Đà-Lạt; mời tất cả các cố-vấn Hoa-Kỳ thuộc 4
địa-hạt là Phụng-Hoàng (Phoenix), Cảnh-Sát Sắc-Phục (PSD tức Public Safety
Division=An-Ninh Công-Cộng), Tình-Báo (PSB tức Police Special Branch=Ngành
Đặc-Biệt, và PRU tức Province Reconnaissance Unit=Thám-Sát Tỉnh),
và Cảnh-Sát Dã-Chiến (NPFF tức National Police Field Force), cùng dự với
tất cả các đại-diện của các cơ-quan quân-sự và các Bộ khác, các cấp chỉ-huy
Cảnh-Sát, từ cấp Vùng xuống đến cấp Quận khắp Vùng II; để tôi thuyết-trình
quan-điểm của mình về các vấn-đề sau-chiến-tranh.
Tôi cũng tự-nguyện đảm-trách một số giờ giảng-dạy tại Trung-Tâm Huấn-Luyện
Phụng-Hoàng Quân-Khu II, dành cho các sĩ-quan Quân-Lực (Phòng 2, An-Ninh
Quân-Đội, Chiến-Tranh Chính-Trị...), viên-chức các Bộ khác (Thông-Tin,
Chiêu-Hồi, Dân-Ý-Vụ, Xây-Dựng Nông-Thôn...), và các cấp cảnh-nhân (Đặc-Cảnh,
Cảnh-Sát Sắc-Phục, Cảnh-Sát Dã-Chiến, Thám-Sát Tỉnh...), cũng với các đề-tài
nói trên.
Ngoài ra, tôi còn nắm lấy nhiều cơ-hội khác để phổ-biến nhận-thức của mình,
thí-dụ: tại Trung-Tâm Tu-Huấn Tình-Báo Sơ-Cấp Vùng II trực-thuộc quyền tôi; tại
Trung-Tâm Huấn-Luyện Cảnh-Sát Căn-Bản Vùng II; tại các Khóa Đào-Tạo Trưởng Cuộc
CSQG cấp Xã/Phường, dành cho từng đợt sĩ-quan Quân-Lực biệt-phái qua; v.v... là
những nơi mà chương-trình giảng-huấn có dành cho tôi nhiều giờ.
Trước năm 1972 thì tôi tham-gia công-tác Phụng-Hoàng với tư-cách Ủy-Viên; từ
năm 1972, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng không còn là Ủy-Viên Ủy-Ban
Phụng-Hoàng cấp Quân-Khu nữa; nhưng vì tôi muốn lợi-dụng tổ-chức này để làm lợi
cho công-cuộc chống-Cộng về sau, nên tôi dựa vào uy-tín cá-nhân của mình để vẫn
tiếp-tục giảng-dạy tại Trung-Tâm Huấn-Luyện của Ủy-Ban Phụng-Hoàng Quân-Khu II,
với tư-cách “chuyên-viên” là một tư-cách do tôi tự-phong và được mọi người
hữu-quan cả Việt lẫn Mỹ mặc-nhiên nhìn-nhận.
Tôi lại biên-soạn và ấn-hành nhiều bài tham-luận, xung quanh chủ-đề đã được nêu
ra, gửi khắp các cấp, các nơi trên toàn-quốc, cả Việt-Nam lẫn Hoa-Kỳ.
Việc này xảy ra sau khi đã có chỉ-thị của Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia dưới
thời Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình cấm-chỉ mọi hình-thức báo-chí, tạp-chí,
đặc-san, nội-san, báo tường, thư tin, v.v..., ngoại-trừ tờ báo “Bạn Dân” của
Trung-Ương.
Nói chung thì tôi đã kiên-trì nuôi-dưỡng, quảng-bá và thực-thi ý-niệm của mình,
rằng tất cả các Chương-Trình, Kế-Hoạch riêng-lẻ, tuy có tính-cách chiến-thuật
giai-đoạn nhưng đều tương-quan với nhau và có mục-đích chiến-lược trường-kỳ,
nhằm chuẩn-bị đối-phó với tình-hình sau-chiến-tranh. Kết-luận của tôi là
phải kiện-toàn Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia, nhất là Ngành Đặc-Biệt, để có đủ
sức đảm-nhận vai trò lĩnh-đạo và tiền-phong trong trách-vụ ổn-định tình-hình
an-ninh đối-nội và đối ngoại của Quốc-Dân, đúng với tinh-thần và đường-hướng
của Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa - là một “quốc-sách” đã bị giết non.
Nhưng, Chính-Quyền Trung-Ương thì quyết bảo-thủ tình-trạng hiện-thời.
Có thể nói là tôi sắp bị trừng-phạt vì những ý-kiến phát-biểu ra ngoài
chính-sách của Trung-Ương?
Cộng-Sản Trên Đường
Phố VNCH
Theo Hiệp-Định Paris thì lĩnh-thổ Việt-Nam Cộng-Hòa được chia ra thành nhiều
Khu-Vực, mỗi Khu-Vực có một Tiểu-Ban Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn;
dưới mỗi Tiểu-Ban có một số Tổ, mỗi Tổ phụ-trách một số Tỉnh.
Các Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên và 2-Bên cũng được tổ-chức tương-tự.
Trụ-sở Khu-Vực II đóng tại Pleiku. Tôi đã đến phi-trường Cù-Hanh ở đây,
để chứng-kiến lúc phái-đoàn Cộng-Sản Bắc-Việt bước ra từ một chiếc phi-cơ C-130
do phi-công Không-Quân VNCH và Hoa-Kỳ lái, từ Tân Sơn Nhất lên.
Tôi đã nhìn thấy những bộ mặt khắc-khổ quắt-queo, những bộ quân-phục nhăn nhúm
lụng-thụng, những bàn tay luớ-quớ sờ-soạng không biết mở cửa xe-hơi cách nào,
và những cái ngoẹo đầu nheo mắt của chính các “đồng-chí” cộng-sản Đông-Âu
ngỡ-ngàng nhìn ngó dáng-dấp thô-lậu và điệu-bộ quê-kệch của các sĩ-quan cao-cấp
bộ-đội Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa. Nhưng điều quan-trọng nhất là tôi đã
ghi nhận được đầy-đủ các đặc-điểm nhận-diện của mỗi phái-đoàn trong bốn nước
tham-gia Ủy-Hội Quốc-Tế, và của cộng-sản Bắc-Việt (Việt-Cộng không đến), nhất
là màu cờ, kiểu-cách đồng-phục, quân-hàm, phù-hiệu của họ, là những điều mà
đáng lẽ mỗi cảnh-nhân đã được Trung-Ương phổ-biến và phải thuộc lòng.
Một thời-gian sau, Chuẩn-Tường Huỳnh Thới Tây gọi điện-thoại ra tôi, cấm
toàn-thể nhân-viên CSQG/CSĐB không được tiếp-xúc với cộng-sản Hung-Gia-Lợi và
Ba-Lan cũng như CSBV và VC. Tôi nhận lệnh xong, hỏi lại Tướng Tây: Nếu họ
ra phố, hỏi Cảnh-Sát về đường đi chẳng hạn, thì Cảnh-Sát có được phép trả lời,
tức là nói chuyện với họ, hay không? Chuẩn-Tướng Tây đáp rằng ông chỉ
nhận được lệnh của Thiếu-Tướng Bình như thế mà thôi.
Sau ngày Hiệp-Định Paris ra đời hơn nửa năm, có một phái-đoàn của Bộ Tư-Lệnh
Cảnh-Lực Quốc-Gia đến Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng II để giải-thích về văn-kiện nói
trên.
Sau khi đại-diện Trung-Ương nói xong, tôi nhắc lại với các Chỉ-Huy-Trưởng
và phái-đoàn đại-diện Cảnh-Lực của 13 Tỉnh và Thành khắp Vùng II, những điều
tôi đã thông-tri cho Ngành Đặc-Biệt nhưng có một số bộ-phận Sắc-Phục chưa rành,
về kiểu-thức và màu-sắc quân-phục, cấp-hiệu, đặc-điểm của các phần-tử cộng-sản
khác nhau. Tôi cũng nêu lên giả-dụ, nếu cộng-sản hỏi những chuyện
thông-thường, thì nhân-viên Cảnh-Sát phải lịch-sự trả lời, như Cảnh-Sát Paris
trong thời-gian có Hội-Nghị Quốc-Tế về chiến-tranh Việt-Nam. Phái-đoàn
các địa-phương mừng-rỡ tập-trung sự chú-ý về tôi, vì những tin-tức cụ-thể như
thế đã đáp-ứng nhu-cầu tìm hiểu thực-tế trước mắt của mọi người. Nhưng,
có một viên-chức sở-tại là Đại-Úy Nguyễn Khắc Nghị, đã phát-biểu: “Phái-đoàn
Trung-Ương không đề-cập gì đến vấn-đề đó; không ai được phép nói rộng ra ngoài
giới-hạn nội-dung đã được thuyết-trình!”
Chắc-chắn chuyện đó không bị bỏ sót trong bản tường-trình về chuyến đi công-tác
này của phái-đoàn.
Có thể là tôi sắp bị trừng-phạt về việc ấy, vì đã vượt quyền Cấp Trên?
Một Vở Kịch-Thơ Bị
Cấm Xuất-Bản
Suốt mười năm nay, tôi đam-mê công-vụ đến nỗi không còn đầu-óc và thì-giờ để
sáng-tác và liên-lạc với các bạn văn thơ.
Nghĩ rằng mình cần trở lại với giới tao-nhân, tôi bèn chuẩn-bị ấn-hành một số
tác-phẩm, hoặc đã đăng báo, hoặc còn là bản thảo; và tôi bắt đầu với vở
kịch-thơ xã-hội “Lão Ăn Mày”. Kịch viết đã lâu, đã được công-diễn tại sân-khấu
“Hội Quảng-Tri” ở Huế, trước năm 1960 là năm tôi bị lưu-đày từ cố-đô lên
Cao-Nguyên. Để kỷ-niệm thời-gian sinh-sống và sinh-hoạt văn-nghệ sôi-động
ở thủ-phủ của Miền Trung, tôi đã kèm theo phần chính cuốn sách gửi Bộ Thông-Tin
để xin kiểm-duyệt, một phần phụ-lục trong đó có một bức thư của tôi gửi các bạn
thân ở Sài-Gòn như nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo, thi-sĩ Xuân-Huyền, nữ-sĩ
Huyền-Chi, v.v..., tường-thuật vụ trình-diễn vở kịch thơ “Hồ Quý Ly” của
tôi tại Huế vào cuối thập-niên 1940.
Thuở
đó, Hội-Đồng Kiểm-Duyệt Trung-Việt là một cơ-quan biệt-lập, do cụ Hồ Đắc Định,
một nhân-vật trí-thức thức-thời, làm Chủ-Tịch, và nghệ-sĩ Vũ Đức Duy, một
kịch-tác-gia kiêm đạo-diễn kiêm diễn-viên tài-danh, làm Tổng-Thư-Ký. Hai
vị chủ-chốt này đã ký cấp giấy phép cho tôi công-diễn và xuất-bản vở kịch
kia. Thế nhưng ngay đêm đầu tiên, đang diễn dở chừng thì viên Tỉnh-Trưởng
địa-phương, là người được mời đến xem trong hàng quan-khách danh-dự, đã ra lệnh
ngưng diễn và cấm tiếp-tục, viện lý-do rằng vở kịch ấy đề-cao nhân-vật lịch-sử
Hồ Quý Ly đề-kháng Trung-Hoa xâm-lăng, gợi lên liên-tưởng đến Hồ Chí Minh cũng
đang chống Pháp ngoại-xâm (quân-đội viễn-chinh Pháp đã đổ bộ lên các Thành Thị
lớn từ đầu năm 1947). Hội-Đồng Kiểm-Duyệt, cũng cùng có mặt tại chỗ, liền
bác-bỏ quyết-định của Tỉnh-Trưởng, cho rằng đây là một vấn-đề văn-nghệ thuộc
quyền-hạn của Hội-Đồng. Các Giám-Đốc Thông-Tin, Công-An, v.v... đều là
nhân-vật Quốc-Gia, chống-Cộng nhưng cũng chống Pháp - chống
Pháp bằng chính-trị và ngoại-giao - nên tán-thành
quyết-định của Hội-Đồng Kiểm-Duyệt. Rốt cuộc vở kịch của tôi đã tạo nên
dư-luận sôi-nổi và đã được trình-diễn liên-tiếp nhiều lần...
Chắc Bộ Thông-Tin, vào năm 1973, hốt-hoảng liên-kết vở kịch “Lão Ăn Mày” ngày
nay với vở kịch “Hồ Quý Ly” ngày xưa, nên đã đóng vào tập bản thảo của tôi 3
chữ “CẤM XUẤT BẢN” to-tướng.
Tôi đã có nhiều kinh-nghiệm bản-thân về sự phối-hợp giữa Ngành Thông-Tin với
Ngành Công-An. Có thể là tôi sắp bị trừng-phạt vì có tác-phẩm như trên?
Nỗ-Lực Cuối-Cùng Của
Giới Cao-Cấp Cảnh-Sát Nguyên-Ngành
Ngoài
Chuẩn-Tướng Bùi Văn Nhu, được giữ lại với danh-nghĩa Phó Tư-Lệnh Cảnh-Lực
Quốc-Gia, các cấp chỉ-huy cao-cấp chính gốc Cảnh-Sát đều bị cất chức, hoặc
chuyển qua Bộ Nội-Vụ, hoặc giao cho những phần-vụ thặng thừa.
Trước khi bị tước hết quyền-hành và đẩy ra xa, số nhân-vật ấy đã làm một việc,
xem như nỗ-lực cuối-cùng của tập-đoàn lĩnh-đạo cũ, là đề-nghị Tư-Lệnh sử-dụng
tôi vào một trách-vụ xứng-đáng hơn. Những tên-tuổi vang-bóng một thời như
Bùi Văn Nhu, Trần Vĩnh Đắt, Đàm Trung Mộc, Lê Khắc Duyệt, Lê Sơn Thanh, Bảo
Trọng, Nguyễn Bính, Nguyễn Phúc, Cao Xuân Hồng, v.v... Họ muốn thấy tôi
qua làm ít nhất cũng là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh quan-trọng, một chức-vụ
mà tôi đã từng đảm-trách và hoàn-thành xuất-chúng từ
mười năm xưa.
Hôm Chuẩn-Tướng Tây ra Nha-Trang, Đại-Tá Cao Xuân Hồng, lúc ấy là
Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng II, cũng đã gợi ý với ông là nên dùng tôi để
thay-thế Trung-Tá Nguyễn
Văn Long (quân-lai).
Tôi mà được giới-thiệu nồng-nhiệt như thế thì có khác gì hơn là bị vạch mặt chỉ
tên rằng tôi là một con gà-nòi của phe kia! Hơn nữa, tôi đã nghe kể về
tính tự-ái của Tướng Tây. Một hôm, Thiếu-Tá Nguyễn Văn Độ, Chánh Sở
Đặc-Biệt Tỉnh Khánh-Hòa, bị Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương gọi về, vì đã tuân
theo một lệnh nào đó của Tỉnh-Trưởng Tỉnh địa-phương. Tướng Tây hỏi: Giữa
Trưởng Tỉnh và tôi, anh chọn ai? Độ đáp: Tôi chọn Thiếu-Tướng. Hỏi:
Vì sao? Đáp: Vì nếu Trưởng Tỉnh nơi này mà không bằng-lòng về tôi thì tôi
còn có thể đến với Trưởng Tỉnh nơi khác; nhưng nếu Thiếu-Tướng mà không vừa-ý
về tôi thì tôi không còn đất sống! Thế là Độ được cho về, bình-an.
Bây giờ thì đến phiên tôi. Có thể là tôi bị xem như đã chạy-chọt với giới
ngoài Ngành, trong lúc Ngành Đặc-Biệt có tư-cách chuyên-môn, biệt-lập, tự-quản
về mặt nhân-viên. Tôi sắp bị khiển-trách về vấn-đề này?...
*
Tôi nghĩ đến những hình-phạt; có thể là khiển-trách ghi hồ-sơ, cất chức, đình
thăng-thưởng, thuyên-chuyển, sa-thải, và cao hơn hết là... bỏ tù. Nhưng,
tôi thì đã nhiều lần nếm đủ các loại hình-phạt kể trên.
Điều duy-nhất khiến tôi lo-ngại chính là đổi vùng. Mỗi lần thay đổi chỗ ở
là một lần cuộc sống đảo-điên: lương tiền ít-oi, vật-giá leo thang; Cảnh-Sát
không có cư-xá, Tư-Lệnh Cảnh-Lực cấp Vùng mà còn phải ở nhà thuê...
*
* *
Gặp tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây chỉ nói một câu ngắn gọn:
- Tôi
cho anh về Miền Trung, làm Trưởng Cơ-Quan cấp Vùng. Anh có 3 ngày để trả
lời tôi.
Nhìn nét mặt ông, tôi biết là tôi không thể trình-bày ý-kiến ngay lúc đó, dù
chỉ là một phản-ứng tức-thời.
Tôi đứng dậy chào, đón nhận bàn tay xiết chặt của viên chỉ-huy cao nhất trong
Ngành.
Tôi còn gì nữa mà “về Miền Trung”? Miền Trung đối với tôi trước hết là xứ
Huế thân-yêu, nơi đã để lại trong tôi biết bao kỷ-niệm vui buồn của một thời
trai-trẻ khôn quên. Tôi đã nhẫn-nại kêu xin nhiều năm mong được trở về
ngoài đó, nhưng nguyện-vọng đã không thành. Ước-muốn chôn vùi từ mười ba
năm về trước, trải qua bao nhiêu tang-thương, đến giai-đoạn này mới được
ngó-ngàng. Bây giờ thì ông+bà ngoại tôi, là những người đã nuôi-nấng tôi từ
nhỏ, đã mất từ lâu; mẹ tôi đã từ-trần; dì tôi đã ra đi; thân-nhân không còn;
bạn-bè kẻ chết, kẻ tha-phương; cảnh-vật đổi khác; tôi có trở về thì cũng chỉ
làm một khách viễn-phương. Hơn nữa, tôi cần tiếp-tục ở lại Nha-Trang để
giữ cho gia-đình khỏi bị đổ vỡ vì một rạn-nứt đã thành-hình...
Sáng sớm hôm sau, tôi vào gặp Chuẩn-Tướng Tây.
Ông lắng nghe tôi, nhưng không chấp-nhận những gì tôi nói. Viên Trưởng
Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương ôn-tồn bảo tôi:
- Chúng
tôi muốn dùng người đúng với kiến-thức, kinh-nghiệm, thiện-chí và tác-phong của
mỗi người. Toàn-quốc chỉ có bốn Vùng; Vùng I là Vùng quan-trọng
đặc-biệt. Hiện nay thì tôi không thiếu sĩ-quan, kể cả một số cao-cấp hơn
anh. Nhưng tôi chọn anh...
Tôi cảm-động vì lời nói ấy. Đó là sự thật.
Nhưng
tôi thấy rõ, Vùng I là “Vùng Chiến-Tuyến”. Ngay tại Đà-Nẵng, thủ-phủ mới
của Miền Trung, đặc-công cộng-sản vẫn có thể bất-thần ra tay bất-cứ lúc
nào. Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện, Thị-Trưởng mà cũng bị mất tích; Trung-Tá
Nguyễn Đức Am, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Thị-Xã mà cũng bị hạ-sát; Đại-Úy Lê
Diệp, Trưởng Phòng Đặc-Nhiệm của Ngành Đặc-Biệt toàn Vùng I mà cũng bị gài mìn
tử-thương.
Chuẩn-tướng
Tây trấn-an tôi:
- Ngoài
đó đã có Trung-Tướng* Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh Quân-Đoàn I và Quân-Khu
I. Cộng-sản không phải là vấn-đề đáng lo!
*Trung-tướng:
tướng ba sao.
Tôi đâu có lo về vấn-đề cộng-sản. Cả ở núi, rừng, cũng như ở Xã, Thôn,
tôi đã chạm trán, chạm súng với chúng nhiều lần. Tôi lo là lo về nội-tình Quốc-Gia
với nhau. Thấy tôi vẫn chưa dứt-khoát nhận lời, Tướng Tây thuyết thêm:
- Các anh phải nhận lấy trách-nhiệm của
mình. Chúng tôi chỉ qua đây một thời-gian ngắn, để giúp các anh củng-cố,
phát-triển; rồi một ngày kia chúng tôi sẽ trở về lại với đời quân-nhân...
Thế là rõ-ràng. Chuẩn-Tướng Tây nhắc đến thái-độ chống-đối của tôi, vừa
để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị gì, vừa để ngụ-ý là mình chưa hẳn đã bỏ
qua. Tuy thế, ông không dồn tôi vào chân tường. Ông đứng dậy, đưa
tay ra bắt tay tôi, nói giọng trách-móc một cách thân-tình:
- Tôi cho anh ba ngày cơ mà! Anh đã hội-ý
với các Giám-Đốc ở Bộ Tư-Lệnh chưa? Anh đã dò-hỏi tình-hình ở Vùng I
chưa? Anh cần những phương-tiện gì thì gặp Trung-Tá Huỳnh Kiêm Thanh...
Tôi không dò hỏi gì nhiều. Tôi chỉ loanh-quanh tìm gặp vài ba nhân-vật
cố-tri am-thạo tình-hình là đủ.
Trung-Tá Ưng Du, một sĩ-quan lão-thành xuất-thân từ thời Quân-Đội Quốc-Gia chưa
ra đời, bảo tôi: “Anh được cất nhắc lên chức-vụ cao là một dịp may.”
Trung-Tá cảnh-nhân Nguyễn Văn Thuận, người từng chứng-kiến nhiều lần đổi nhóm
thay phe tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, khuyên tôi: “Anh nên nhận lời, vì
Tư-Lệnh có thể đưa anh đi một Tỉnh xa, cũng phải dời đổi chỗ ở, và cương-vị lại
có thể thấp hơn, mà còn khiến ông phật lòng.”
Đại-tá Lê Tấn Phước, một người bà-con của tôi, hỏi tôi: “Anh muốn ở yên chỗ cũ,
vậy anh có sẵn một triệu đồng không?”
Vài ba bạn khác nửa thật, nửa đùa: “Coi chừng cái tính liêm-khiết của
anh. Phải khéo-léo với bọn tham-nhũng: theo chúng thì chúng sẽ che-chở
anh, vì sợ rút dây động rừng; chống chúng thì chúng có cả tập-đoàn để tiêu-diệt
anh...”
Ngay chiều hôm ấy, tôi vào gặp lại viên Tư-Lệnh của tôi. Tôi định chỉ nói
ngắn gọn, nhưng mới mở lời “Thưa Thiếu-Tướng...” thì Tướng Tây đã cười, hỏi
chận: “Chịu đi rồi hả?”
Bây giờ thì Tướng Tây vui-vẻ nhưng nghiêm-nghị vào đề:
- Miền Trung xưa nay thì anh đã biết rành
rồi. Phong-trào “Phật-Giáo Tranh-Đấu” khởi đầu từ Miền Trung; quân-đội
nổi dậy, chính-quyền địa-phương ly-khai chính-quyền trung-ương, chỉ xảy ra ở
Miền Trung; các giáo-phái đụng-độ nhau cũng chỉ có ở Miền Trung. Bây giờ
thì tình-hình rối-reng hơn: đảng-phái lung-tung, nội-bộ chính-quyền
chia-rẽ. Mỗi ngày Trung-Ương nhận được không biết bao nhiêu đơn-từ tố-cáo
lẫn nhau; thậm-chí báo-cáo của các cơ-quan đã trái-ngược nhau, mà mỗi cơ-quan
có khi lại tự mâu-thuẫn với chính mình. Người dân ngoài đó hầu như ăn rồi
chỉ biết có việc thưa-kiện, khiếu-nại lẫn nhau. Nhiệm-vụ của anh là phải
ổn-định tình-hình chính-trị nội-bộ, từ trong Cảnh-Sát Quốc-Gia mà ra, đến các
cơ-quan chính-quyền, đoàn-thể dân-nhân. Ngoài đó có yên thì trong này mới
rảnh tay...
Chuẩn-Tướng Tây đổi giọng, nói về tình-trạng cá-nhân của tôi:
- Cấp-số ở chức-vụ ấy là đại-tá. Trung-Ương
sẽ yểm-trợ mọi mặt cho anh. Về nhà-cửa thì tôi sẽ giúp anh mỗi tháng hai
chục ngàn đồng. Nếu gia-đình còn ở Nha-Trang, tôi sẽ cho anh vào thăm mỗi
tháng một lần. Bao giờ thì anh sẵn-sàng?
- Ngày mai tôi ra Nha-Trang; ngày kia tôi ra
Đà-Nẵng, nhận việc ngay trong ngày.
- Tốt! Ngày kia là ngày 26-9-1973.
Chúc anh thành-công!
Tôi chưa ra khỏi phòng thì đã nghe Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương bấm máy
nội-đàm bảo Trung-Tá Huỳnh Kiêm Thanh, Giám-Đốc Nha Tiếp-Trợ, làm lệnh cho tôi
về “Vùng Chiến-Tuyến”, tức Quân-Khu I, tên mới của Miền Trung.
LÊ XUÂN NHUẬN
(trong “Về Vùng Chiến-Tuyến”)
No comments:
Post a Comment