30/4: Trang sử thuyền nhân
và nghĩa trang Galang
Bùi Văn Phú
Gửi đến BBC Tiếng Việt từ California
28 tháng 4 2021
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Trại tị nạn Galang I,
Indonesia
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh
Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc
sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi
được định cư ở một nước thứ ba.
Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm
1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200
nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người
Cam Bốt.
Tầu vượt biển từ Việt Nam thường cập bến
Indonesia trong các vùng quần đảo Riau, Natuna hay Anamba rồi được đưa vào
Terempa hay Kuku ở tạm, trước khi tầu của Cao uỷ Tị nạn ra đón vào Galang, nơi
được gọi là "cửa ngõ tự do và tình người."
Galang có hai trại nằm cách nhau hai cây
số. Từ cầu tầu vào một quãng đường là Galang I, nơi tiếp nhận người mới đến. Ở
đây thuyền nhân sống tập thể trong những ba-rắc bằng gỗ, dài 20 mét ngang 6
mét. Mỗi ba-rắc chừng 50 người, có thể nhiều hoặc ít hơn tuỳ theo dân số trại.
Galang II, trước năm 1987 là nơi sinh sống
của những người đã được một nước thứ ba nhận cho định cư. Đa số đi Mỹ và một số
đi Canada, Úc hay Pháp.
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Người tị nạn xem văn nghệ tại
Youth Center, Galang II
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Tuồng cải lương trong một buổi
văn nghệ ở Galang
Người tị nạn trước khi đi Mỹ phải qua một
khoá học kéo dài từ ba đến bốn tháng rưỡi, để học Anh văn và kiến thức về đời sống
Mỹ. Từ năm 1987 các khoá Mỹ chuyển qua Bataan, Philippines.
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Một gia đình thuyền nhân
trong ba-rắc Galang I
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Nhà ở của người tị nạn trong
trại Galang II
Nhà ở cho người tị nạn trong Galang II
cũng là những ba-rắc gỗ, nhưng thiết kế kiểu nhà sàn, tầng trên chia làm 10
phòng, cho từng gia đình để có sự riêng biệt. Bên dưới là nơi nấu ăn, tắm rửa.
Hai trại đều có chợ, quán ăn, quán cà
phê; có nhà thờ, chùa, thánh thất với các lễ nghi tôn giáo cùng các sinh hoạt
đoàn thể như Đoàn Oanh Vũ, Gia đình Phật tử Long Hoa, Thiếu nhi Thánh thể,
Thanh niên Công giáo.
Về giáo dục có chương trình phổ thông
dành cho trẻ em, có thư viện, phòng thính thị cho việc học tiếng Anh. Có chương
trình huấn nghệ do các cơ quan thiện nguyện World Relief, Save the Children điều
hành.
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Bà Pirjo Dupuy, Cao ủy trưởng
đặc trách định cư, trao phần thưởng cho học sinh khối giáo dục phổ thông
Về y tế có bệnh viện PMI do Hội Hồng
Nguyệt Indonesia trông coi.
Trong trại có bán nguyệt san Tự Do, do
linh mục Gildo Dominici sáng lập và làm chủ nhiệm, người tị nạn lo điều hành và
nội dung bài vở.
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Bán nguyệt san Tự Do
Vào các dịp lễ như tưởng niệm 30/4, Giỗ
tổ Hùng Vương, Kỷ niệm 1/11, Trung Thu, Tết, Giáng Sinh, Phật Đản trong trại đều
có sinh hoạt văn hoá, văn nghệ MCI (Maintaining Cultural Identity - Bảo tồn văn
hoá) do nhiều đoàn thể đóng góp được tổ chức tại CVC hay Trung tâm Sinh hoạt
Thanh Thiếu niên (Youth Center).
Nhìn chung đời sống trại Galang như ở một
làng quê Việt Nam. Lúc đông nhất dân số trong trại lên đến 15 nghìn người tị nạn,
cùng hàng trăm nhân viên đến trại làm việc từ nhiều quốc gia.
Từ sau tháng 4/1975 những ai rời Việt
Nam đến được bến bờ các quốc gia Đông Nam Á, nếu không có thân nhân ở các nước
khác, đều được Mỹ nhận cho định cư.
Đối diện với khủng hoảng về thuyền nhân,
một hội nghị quốc tế về người tị nạn Đông Dương đã họp ở Geneve tháng 7/1979 và
đi tới quyết định là không chỉ Hoa Kỳ tăng số người tị nạn được nhận lên 14
nghìn mỗi tháng, nhiều quốc gia khác cũng mở rộng bàn tay đón nhận người tị nạn
Đông Dương là Úc, Canada, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Nhật. Ngay cả Do Thái cũng nhận
người tị nạn Việt trong giai đoạn này.
Mười năm sau, chính sách về người tị nạn
Đông Dương có những thay đổi căn bản.
Đầu tháng 3/1989, đại diện của 29 quốc
gia họp tại Kuala Lumpur, Malaysia để tìm giải pháp cho thuyền nhân. Sau đó các
quốc gia ASEAN đưa ra quyết định những thuyền nhân đến các trại sau ngày
14/3/1989 sẽ phải qua thanh lọc để xác định qui chế tị nạn, từ đó mới có thể
xin định cư ở một nước thứ ba. Không có qui chế tị nạn, người vượt biên, vượt
biển sẽ bị trả về nguyên quán.
Quá trình thanh lọc có những bất công
khiến người vượt biển trong các trại ở Đông Nam Á biểu tình phản đối.
Trong trại Galang nhiều người đã tự
thiêu, tự sát vì bất công trong thanh lọc và chống lại việc cưỡng bách hồi
hương.
Tại hải ngoại, nhiều hội đoàn, các tổ chức
giúp người vượt biển đã lên tiếng cầu cứu với Cao uỷ Tị nạn, với lãnh đạo các
quốc gia mong tìm ra một giải pháp nhân đạo cho thuyền nhân.
Vào đầu thập niên 1990, việc giải quyết
vấn đề thuyền nhân tị nạn Việt Nam, cũng như vấn đề cựu tù nhân học tập cải tạo,
vấn đề con lai là những điểm được bàn thảo trong tiến trình thiết lập bang giao
giữa Washington và Hà Nội.
Việt Nam lúc đầu không muốn nhận lại
thuyền nhân đã bỏ nước ra đi. Như năm 1975 đã không muốn nhận người di tản hồi
hương trên con tầu Việt Nam Thương Tín.
Năm 1991 Hà Nội loan báo đồng ý nhận lại
những người vượt biên, vượt biển không có qui chế tị nạn.
Chính sách cưỡng bách hồi hương được thi
hành. Gần 6 nghìn thuyền nhân từ Galang đã phải hồi hương. Một số đã tình nguyện
hồi hương trước, sau được Hoa Kỳ nhận cho vào Mỹ theo chương trình ROVR
(Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees).
Cùng lúc chương trình định cư tù cải tạo
HO và con lai được Hoa Kỳ và Việt Nam xúc tiến đưa hàng trăm nghìn người Việt
qua Mỹ định cư.
Làn sóng vượt biển chỉ chấm dứt 20 năm
sau khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975.
Các trại tị nạn ở Đông Nam Á, một thời
là "cửa ngõ tự do và tình người", từng đón bộ nhân vượt biên hay thuyền
nhân vượt biển đóng cửa.
Khao I Dang, Sikiew, Songkla, Panat
Nikhom, Bidong, Sungai Besi, Kuku, Galang, Palawan, Bataan, Chi Ma Wan, Hei
Ling Chau, Kai Tak, Tuen Mun, Argyle, Whitehead nhiều nơi nay không còn dấu vết
gì nhiều ngoài những nấm mồ của người tị nạn đã qua đời trong trại.
Nằm giữa đường từ Galang I vào Galang II
có một khu nghĩa trang, nơi chôn cất khoảng 500 đồng hương kém may mắn đã qua đời
tại đây, được thuyền nhân gọi là Galang 3.
Nhiều người chết vì già, vì bệnh. Có bé
sơ sinh chết khi vừa lọt lòng mẹ. Có người tự sát để phản đối chính sách thanh
lọc bất công được áp dụng cho những ai đến đảo sau ngày 14/3/1989.
Thời gian làm việc trong trại Galang tôi
có biết đến hai cái chết. Một anh chừng 30 tuổi, được Hoa Kỳ nhận cho định cư
và mở tiệc ăn mừng. Sau buổi tiệc, tối về phòng ngủ và sáng hôm sau không thức
dậy nữa.
Người thứ hai là một thanh niên hay quậy
phá, nhiều lần bị P3V, cơ quan an ninh của Indonesia, bắt giam vào "nhà khỉ"
tức nhà tù của trại. Vào một buổi trưa, anh kêu bạn tù ở phòng cạnh bên kéo dây
để anh phơi quần áo. Đâu ngờ đó là dây anh dùng thắt cổ tự tử.
Trại Galang II có Miếu Hai Cô ngay dưới
một tàn cây to cao như cây đa. Nghe kể là hai cô đi vượt biển, tầu gặp hải tặc
và bị hãm hiếp. Nhiều người trong trại thường đến miếu thắp nhang.
Những năm sau nơi này có thêm một miếu nữa
nên trở thành Miếu Ba Cô, để tưởng nhớ đến ba cô gái Việt đã chết trong trại.
Năm 2005, ghi dấu 30 năm ngày 30/4 tang
thương khiến nhiều người phải bỏ nước ra đi, cộng đồng người Việt hải ngoại có
dự án xây đài tưởng niệm thuyền nhân tại Galang và Bidong. Tổ chức Văn khố Thuyền
nhân Việt Nam ở Úc, do ông Trần Đông làm giám đốc, xúc tiến công tác.
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Bia tưởng niệm người vượt biển
tại nghĩa trang Galang năm 1986
NGUỒN HÌNH ẢNH,ẢNH TÀI LIỆU
TRÊN FB
Chụp lại hình ảnh,
Đài tưởng niệm hoàn tất năm
2005 và ngay sau đó bị đục bỏ do áp lực ngoại giao từ Việt Nam
Khi đài tưởng niệm hoàn thành thì chính
phủ Việt Nam phản đối, tạo áp lực ngoại giao buộc chính quyền địa phương phá bỏ.
Đài tưởng niệm ở Galang bị đục bỏ tấm
bia bằng đá, với hàng chữ:
"In commemoration of the hundreds
of thousands of Vietnamese people who perished on the way to Freedom
(1975-1996).Though they died of hunger or thrist, of being raped, of exhaustion
or of any other cause, we pray that they may now enjoy lasting peace.Their
sacrifice will never be forgotten.Overseas Vietnamese Communities, 2005"
[Để tưởng niệm hằng trăm ngàn người Việt
đã chết trên đường tìm tự do (1975-1996).Dù họ đã chết vì đói khát, vì bị hãm
hiếp, vì bị kiệt sức hay vì bất cứ nguyên do nào khác, chúng tôi cầu nguyện cho
họ được yên nghỉ đời đời.Những hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên.Các
Cộng đồng Việt Nam Hải ngoại, 2005]
Trên tấm bia còn có lời tri ân Cao ủy Tị
nạn Liên Hiệp quốc, Hội Hồng Thập tự Quốc tế, Hội Hồng nguyệt Indonesia và các
tổ chức quốc tế đã cứu giúp thuyền nhân.
Trong hơn 10 năm qua, chính phủ
Indonesia mở cửa Galang làm nơi du lịch. Người Việt hải ngoại đã có những chuyến
đi "Về bến Tự do" thăm lại những trại tị nạn xưa.
Nhiều người từng ở Galang đã trở lại nơi
này để thăm viếng nơi từng có một thời sống qua, cùng tảo mộ chăm sóc cho nghĩa
trang. Điều này khiến Việt Nam không hài lòng vì Hà Nội muốn xoá bỏ dấu tích và
hệ lụy của các chính sách cai trị hà khắc đã khiến người Việt phải bỏ nước ra
đi.
Thông tin và hình ảnh đưa lên mạng gần
đây cho thấy di sản của người vượt biển tị nạn còn lại tại Galang ngày nay là một
bảo tàng về thuyền nhân với nhiều hình ảnh, di vật. Một ba-rắc của Galang II được
dựng lại, vài con thuyền vượt biên được phục hồi và trưng bày. Nhà thờ và chùa ở
Galang II vẫn còn. Cách đây chừng một tháng thì ngôi chùa đã bị hoả hoạn làm
thiệt hại.
Nghĩa trang Galang đã qua nhiều đợt
trùng tu. Những ngôi mộ được làm sạch cỏ chung quanh và có nước sơn mới mầu trắng.
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Nghĩa trang Galang năm 1986
NGUỒN HÌNH ẢNH,BÙI VĂN PHÚ
Chụp lại hình ảnh,
Miếu Hai Cô trong trại
Galang II
Nhìn tấm bia tưởng niệm có trong nghĩa
trang từ những năm đầu của thập niên 1980, nay được bao phủ và có nhiều mái che
trên lối vào làm mất vẻ đẹp và trang nghiêm, người viết bài đề nghị với Văn khố
Thuyền nhân Việt Nam bên Úc, hay hội đoàn nào có trách nhiệm bảo tồn nên có kế
hoạch phục hồi bia tưởng niệm lại nguyên trạng như trước, với không gian hoàn
toàn mở, không nên có các mái che khuất như hiện nay.
Thêm nữa, các tượng ảnh đặt trước và
chung quanh bia tưởng niệm không phù hợp với vong linh của tất cả những người
đã khuất vì thuộc nhiều tôn giáo khác nhau.
Tấm bia nguyên thuỷ chỉ có bình nhang
phía trước. Nhiều người đã đến đây cầu nguyện và cắm nhang tưởng nhớ.
Về bàn làm lễ nếu cần có cho nghi thức
theo tôn giáo, đề nghị dùng một nhà chòi đã có bên phía trên, góc phải nghĩa
trang. Khi đọc kinh hay làm lễ có thể đặt trên bàn hình tượng tôn giáo mang
theo. Sau nghi thức, mọi người có thể xuống viếng mộ.
Nếu cần hướng thẳng về nghĩa trang và
bia tưởng niệm, đề nghị xây dựng một nhà chòi bên kia đường đối diện với cổng
nghĩa trang.
Trong hai thập niên từ sau ngày
30/4/1975, theo số liệu của Cao uỷ Tị nạn Liên Hiệp quốc, đã có gần một triệu
người Việt bỏ nước ra đi, phần đông là vượt biển. Hàng trăm nghìn người đã vùi
thây trên biển và trong rừng sâu.
Hành trình tìm tự do với nhiều đau thương
của người Việt Nam đã làm nên trang sử của thuyền nhân tị nạn.
Tác giả Bùi Văn Phú làm việc tại các trại
tị nạn ở Đông Nam Á trong thập niên 1980. Ông hiện là giảng viên đại học cộng đồng
và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California.
No comments:
Post a Comment