Chủ nghĩa là hệ thống các quan niệm, ý thức, tư tưởng kết thành cơ sở lý thuyết chi phối, hướng dẫn hoạt động của con người theo một định hướng nào đó. Chữ chủ nghĩa được đặt trước hoặc sau một nhóm từ có chủ đề mô tả những nét đặc trưng về chính trị, kinh tế, xã hội thể hiện trong mỗi chế độ dưới những tên gọi như: chủ nghĩa Quốc Gia Cực Đoan, chủ nghĩa Tự Do, Tư Bản chủ nghĩa, Cộng Sản chủ nghĩa, Tam Dân chủ nghĩa, chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn…v…v…Từ đó trong ngôn ngữ nhân loại có thêm những danh từ mới.
Đôi khi các triết gia, chính trị gia đưa ra một học thuyết khai phóng tư
duy để khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về văn hóa, chính tri, kinh tế, xã hội
cũng được người đời gọi là chủ nghĩa như: chủ nghĩa Hiện Sinh của Jean Paul
Sartre, của Albert Camus.
Những chủ nghĩa này có thể tồn tại để nghiên cứu, có thể được áp dụng vào
các thể chế chính trị, cũng có thể bị đào thải tùy thuộc vào tính thực dụng của
nó có còn phù hợp với những tiến bộ của khoa học kỹ thuât, sự phát triển kinh tế, sự biến thái xã hội, cùng
với tư duy của con người trong mỗi thời đại.
Vào thế kỷ 17-18, nhiều triết gia ở Âu
Châu đưa ra những học thuyết làm thay đổi tư duy và mở đường cho một thời đại mới
với các định chế trong việc quản lý nhà nước giữa nhà cẩm quyền với nhân dân – như
học thuyết “phân chia quyền lực”- Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp - đã được nhiều
quốc gia áp dụng và còn tồn tại cho đến ngày nay.
Khi bàn về sự phân quyền (Tam quyền phân lập), người ta thường biết đến
hai triết gia người Pháp là
C.L.Montesquieu (1689-1775) với các tác phẩm triết học chính trị và luật học như
“Tinh Thần Pháp Luật” (De l’Esprit Des Lois – The Spirit of Law) và J.J.
Rousseau (1712-1778) với tác phẩm “Khế Ước Xã Hội” hay “Xã Ước” (The Social
Contract).
Thực ra ý niệm phân quyền đã được triết gia Aristote đưa ra từ thời cổ đại
Hy Lạp, Ông bảo rằng nó sẽ phù hợp với mọi thời đại. Sau này John Locke (1632-1704) một triết gia
người Anh khai triển thành học thuyết. Montesquieu đã khơi sáng học thuyết này
và được J.J. Rousseau bổ túc để chứng minh tính hữu lý và phù hợp với sự phát
triển xã hội dân sự. Bởi vậy, “Tam quyền phân lập” trở nên nền tảng cho ý niệm dân
chủ - là “chất men” và là động lực đưa đến cuộc cách mạng Pháp 1789, lật đổ chế
độ quân chủ chuyên chế, bãi bỏ chế độ Phong Kiến và nhanh chóng thiết lập chế độ
“Dân Chủ Tư Sản”, thực sự mở đầu cho chủ nghĩa Tư Bản.
Cuộc cách mạng Pháp 1789 bùng nổ
trong giai đoạn nền công nghiệp ở một số nước Tây Âu (Anh, Pháp, Đức, Ý…) phát
triển mạnh nhờ những phát minh khoa học kỹ thuật đem lại, cộng với trào lưu dân
chủ lan tỏa, làm thay đổi nếp sống của người dân và khơi nguồn cho những tư duy
về kinh tế, chính trị, xã hội …
Trong bối cảnh sơ khai đó, chủ nghĩa
Tư Bản có rất nhiều nhược điểm, nên một nhà triết học người Đức, gốc Do Thái,
Karl Heinrich Marx, sau này người ta chỉ gọi Karl Marx (1818-1883) đã viết một
tác phẩm đồ sộ: Tư Bản Luận ( Le Capital) - Một học thuyết chuyên đề về kinh tế,
chính tri có tính triết học và phê phán chủ nghĩa Tư Bản.
Tư tưởng triết học của Marx trong
Le Capital rất sâu rộng, cho nên người ta thường nhắc những khía cạnh ảnh hưởng
đến tiến trình cải tạo và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và dùng thuật
ngữ: “Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật sử quan” để đơn giản hóa một phần
trong hệ thống tư tưởng triết học của Marx.
Marx cho rằng vật chất đóng vai trò
chính yếu và tác động trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội loài người
chứ không phải ý thức thuần lý hay thần linh. Bởi vậy ông nói phải bãi bỏ tôn
giáo – “Tôn giáo là sự bất lực của trí óc con người – nó là liều thuốc phiện”. Đó
là một phần cốt lõi của duy vật biện chứng.
Khi phê phán chủ nghĩa Tư bản, Marx
đưa ra những nhận định về: Tương quan sản xuất, lực lượng sản xuất và công cụ sản
xuất, tạo ra “thặng dư giá trị” mà số liệu thặng dư này vào tay những kẻ nắm giữ
công cụ sản xuất (tư bản), rồi hình thành giai cấp thống trị và bị trị và cảnh
“người bóc lột người”. Vậy phải đấu tranh xóa bỏ giai cấp, quân bình tài sản để
“ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Marx thường phát biểu: “chủ nghĩa Tư
Bản đang dẫy chết và tôi sẽ chứng kiến sự suy tàn của nó”. Nhưng đến khi ông
qua đời chủ nghĩa Tư Bản chưa chết và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay…
Marx cũng đưa ra nhận xét về đời sống
xã hội và lịch sử nhân loại đã tuần tự xuất hiện qua 5 hình thái: -1/ Cộng sản
nguyên thủy -2/Chiếm hữu nô lệ - 3/Chế độ Phong kiến – 4/Tư bản chủ nghĩa – 5/Cộng
sản chủ nghĩa. Đây là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật sử quan (duy vật lịch
sử). Marx cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là
hình thái phát triển xã hội cao nhất và sẽ là giai đoạn cuối cùng của xã hội loài
người.
Lenin (1870-1924) đã khai dụng học
thuyết của Karl Marx, tiến hành cuộc cách mạng vô sản chuyên chính ở Nga năm 1917,
bắt đầu thời kỳ quá độ xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội để chuẩn bị tiến lên
Chủ Nghĩa Cộng Sản - tạo dựng một “Thế gìới đại đồng” - một hình thái “thiên đàng”
hiện thực trên hành tinh này. Cho nên người ta thường gọi là chủ nghĩa
Marx-Lenin.
Nhưng sau hơn 70 năm xây dựng, chủ
nghĩa Marx-Lenin đã sụp đổ và tan rã ngay trên quê hương của Lenin và các nước Đông
Âu trong những năm 1989-1991. Những điều Karl Marx tiên đoán và Lenin mơ tưởng:
- Chủ Nghĩa Tư Bản sẽ suy tàn – Nhân loại sẽ tiến đến thế giới đại đồng – Nơi đây
sẽ không còn giai cấp, cảnh tuợng người bóc lột người và sẽ làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu đã không diễn biến như ý Marx.
Do vậy, Chủ Nghĩa Xã Hội không còn
hấp dẫn và đủ sức kích họat xã hội như ở Thế kỷ 19 – Nó đã đi vào lịch sử nhân loại với những ám ảnh
tàn bạo và suy thoái về kinh tế. Nó đã sản sinh một “giai cấp thống trị mới” không
khác gì thời kỳ phong kiến và cai trị dân chúng với một chính quyền “cướp được
và tự xưng” do đảng Cộng Sản lãnh đạo ( không do nhân dân bầu chọn) nên đã xa rời
quần chúng và không còn sự tin tưởng và ủng hộ của toàn dân. Nó lỗi thời và đã
thuộc về quá khứ…
Trong khi đó các nước theo chủ nghĩa
Tư Bản luôn luôn “điều chỉnh”các định chế cho phù hợp với những phát minh mới
trong lãnh vực khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế, văn hóa, đồng thời phát
huy nền Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền phù hợp với ý thức và trào lưu tiến hóa của
nhân loại.
Nhiều nhà nghiên cứu chính trị, xã
hội đã đưa ra nhận định: - Các nước tư bản phát triển đang chuyển mình sang một
chủ nghĩa mới - Chủ nghĩa Khoa Học Thực Dụng, đồng thời người ta cũng nhận thấy
ngày nay nhiều nước có khuynh hướng quay về với chủ nghĩa “Quốc gia - Dân tộc”.
Trên đây chỉ khái lược những nét chính về chủ nghĩa Cộng Sản và Tư Bản
không nhằm mục đích phê bình mà chỉ muốn tìm hiểu tại sao ngày nay nhiều quốc gia
lại quay về với chủ nghĩa Quốc Gia DânTộc? – Và Việt Nam có nên đi theo trào lưu
tiến hóa của nhân loại: - Áp dụng chủ nghĩa Khoa Học Thực Dụng để phát triển
kinh tế và quay về với chủ nghỉa Quốc
Gia Dân Tộc để bảo vệ nền Độc lập, Tự chủ cho nước nhà?
Nhóm từ ngữ “Quốc Gia - Dân Tộc” tự
hiển lộ đầy đủ ý nghĩa của nó.
Quốc gia là một thực thể gồm có lãnh thổ có biên cương – trong đó một cộng
đồng nhân loại đang sinh sống được cai quản bởi một chính quyền với một văn kiện
lập quy gọi là Hiến pháp.
Dân tộc là một ý niệm phát sinh từ “tình tự” của những người cùng chủng
tộc, màu da, ngôn ngữ…cũng có thể tập hợp nhiều chủng tộc, nhưng đã sinh sống hòa
hợp lâu đời trên cùng một lãnh thổ và cùng trải nghiệm những thăng trầm qua nhiều
thời đại để có chung một nền tảng văn hóa và lịch sử.
Ý niệm Quốc Gia được định hình từ khi loài người từ bỏ cuộc sống du mục
để quần tụ trên một vùng đất được phân chia ranh giới. Từ đó mọi người có bổn
phận bảo vệ biên cương, lãnh thổ của mình và góp phần xây dựng quốc gia giàu mạnh.
đồng thời gìn giữ những giá trị văn hóa cùng truyền thống tốt đẹp của tổ tiên.
Ý niệm Dân Tộc là linh hồn của Quốc
Gia. Nó thiêng liêng, cao cả và biểu tượng là lá Quốc kỳ mà quốc dân luôn luôn
phải tôn thờ. Biên cương quốc gia có thể thay đổi nhưng “hồn nước” vẫn được lưu
truyền. Dân tộc nào không giữ được “hồn
nước” tất sẽ bị diệt vong và tên quốc gia cũng không còn tồn tại.
Người Do Thái mất nước gần hai nghìn năm,
họ đã lưu lạc khắp nơi trên thế giới và chịu số phận đọa đày, khổ ải. Nhưng mỗi
người Do Thái giữ trong lòng cái “hồn nước”, nhờ vậy họ đã thực hiện được giấc
mơ phục quốc vào năm 1948.
Cũng nhờ giữ được “hồn nước” mà 14 quốc gia ( Armenia, Azerbaijan, Belorussia,
Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Litva, Moldova, Tajikistan,
Turkmenistan, Ukraina, Uzbekistan) bị
Stalin sát nhâp vào Liên Bang Xô Viết từ năm 1940 đã tuyên bố độc lập - lấy lại
tên nước khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ năm 1991.
Lướt qua bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc của Trung Hoa ta thấy triều đại nào
có đấng minh vương được anh hùng hào kiệt trong nước góp sức lo việc an dân, giữ
nước thì vương triều đó tồn tại lâu dài, ngược lại sẽ suy tàn rồi nước mất, dân
tan.
Nếu người Việt Nam không mau thức tỉnh, rồi một
ngày không xa những dòng tộc: Đinh, Lê, Lý, Trần, Trịnh, Nguyễn … sẽ kéo nhau đến
một nơi núi rừng thâm u nào đó sống đời vong quốc và mỗi dịp Xuân về cùng nhau
quỳ lạy tạ tội với tổ tiên và thống thiết thốt lên “nỗi hờn vong quốc”.
Ba phần tư Thế kỷ trôi qua - Ba mươi năm
chiến tranh - bốn mươi mốt năm tiếng súng tạm ngưng nhưng VN vẫn ở trong tình
trạng chiến tranh, nhân dân chưa an hưởng một nền hòa bình lâu dài và bền vững
và chưa có một nền Độc lập thật sự cho dân tộc, mặc dù đã có ba lần ra tuyên cáo(1).
Đến bây giờ nhân dân Việt Nam chưa được hưởng một nền Tự do trọn vẹn. Còn Hạnh
phúc vẫn xa tít tận chân trời..
Đã
đến lúc mọi người dân VN, trong đó có các đảng viên cộng sản đang cầm quyền phải
tìm ra nguyên nhân vì sao nhân dân VN không đạt được những khát vọng chính đáng
của mình?
Sau khi chiếm được Miền Nam, rồi
tiến đến thống nhất đất nước, chính quyền Cộng Sản đã áp dụng một số chính sách
“rập khuôn” thời Lenin cướp được chính quyền ở Nga năm 1917 và Mao Trạch Đông ở
Trung Hoa năm 1949 như: -Cải tạo công thương nghiệp - Hợp tác hóa nông nghiệp -
Đánh tư sản mại bản - Đưa những thành phần liên hệ chế độ cũ vào trại tập trung
lao động khổ sai - Đốt sách - Bắt giam các văn nghệ sĩ không hợp tác với chính
quyền chẳng khác gì thời Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò (phần thư, khanh
nho) - Tuyển người phục vụ cho chế độ theo tiêu chuẩn “hồng hơn chuyên”. Và điều
tệ hại nhất là tuyển sinh vào các trường Đại học dựa theo lý lịch…
Những chính sách này đã làm phá sản toàn diện
từ kinh tế, chính trị, xã hội. Thảm họa đã chụp xuống cuộc sống tự do, sung túc
của nhân dân Miền Nam - mọi thứ đều đảo lộn. Cho nên trong dân gian có nhiều câu ca dao được phổ biến
mô tả tình trạng bi thảm thời đó: “Rau muống
nửa bó một đồng. Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân…hay Thằng
khôn đi học, thằng ngu làm thầy … hay
Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do …”
Ông Võ Văn Kiệt (1922-2008), cựu Thủ tướng chính phủ CHXHCNVN nhận ra điều
đó nên đã phát biểu: “30-4-1975 là ngày
có triệu người vui, mà cũng có triệu người buồn” và ông đã thúc đẩy việc “sửa
sai-đổi mới”; Ông cũng là một đảng viên cộng sản cao cấp đầu tiên nêu lên vấn đề
“hòa hợp hòa giải dân tộc” trong lúc các đồng chí của ông còn đang say men chiến
thắng.
“Sửa sai và đổi mới” chỉ là một lối thoát tạm thời cho chính quyền khỏi
sụp đổ và duy trì sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản chứ chưa xây dựng được
một nền tảng vững chắc và một định hướng rõ ràng trong việc “đổi mới” kinh tế,
chính trị và đường lối ngoại giao. Bởi vậy hơn 41 năm qua, dưới sự cai trị của đảng
Cộng Sản, Việt Nam đã đi vào “ngõ hẹp” và tương lai dân tộc rất mịt mờ ….
Sự “nhập nhằng” giữa Chủ Nghĩa Quốc
Gia Dân Tộc và Chủ Nghĩa Cộng Sản khiến các nhà lãnh đạo đương thời khó tìm
ra một chính sách đạt được sự đồng thuận của toàn dân. Nếu nghiêng về chủ nghĩa
Quốc Gia Dân Tộc để xây dựng một thể chế Tự Do Dân Chủ thì đảng Cộng Sản mất độc quyền lãnh đạo; mà
nghiêng về chủ nghĩa Cộng Sản thì nhân dân không chấp nhận và phản kháng. Đó là
trở ngại lớn cho việc phát triển …
Cũng chính sự “nhập nhằng” này, VN đã để mất nhiều cơ may do những biến
chuyển lịch sử đem đến trong thập niên 90: Sự sụp đổ và tan rã của hệ thống
XHCN ở Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu (1989 - 1991),và việc TT Hoa kỳ
Bill Clinton tuyên bố bỏ lệnh cấm vận VN ngàỷ 3-2-1994. Đây là hai cơ hội bằng
vàng để VN xây dựng nền Độc lập, Tự chủ và kinh tế cất cánh.
Khi phe XHCN sụp đổ, thay vì quay về với dân tộc, Đảng đã vội vàng đưa các
ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc xin thần phục qua Hội
nghị Thành Đô (tháng 9-1990). Đến nay Đảng chưa công bố rõ ràng nội dung Hội
nghi Thành Đô cho dân chúng biết, ngay cả
ông TS Nguyễn Trọng Phúc, Viện trưởng Viện lịch sử Đảng ấm ớ phát biểu: “Đấy là
thuộc về lĩnh vực quan hệ gìữa hai đảng, hai nhà nước, còn chúng tôi về lịch sử
không am tường những vấn đề đó” (trao đổi với đài BBC ngày 17-4-2014). Do vậy, trong
nhân dân có những lời đồn đoán rằng vì sợ mất Đảng nên các ông Linh, Mười, Đồng
đã ký kết các văn kiện thỏa thuận để VN sẽ trở thành “một tỉnh tự trị của Trung
quốc” vào năm 2020 - Nghe mà đau lòng!!!
Hơn 50 năm trước, Ông Ngô Đinh Nhu (1910-1963) trong quyển Chính Đề Việt
Nam đã đưa ra nhận định: “Cộng sản Bắc Việt tự đặt mình lệ thuộc Trung cộng đã
đặt chúng ta trước viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ sẽ tiêu diệt mọi
cơ hội phát triển của chúng ta mà còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. Giả sử
Nam VN bị Bắc Việt thôn tính, thì Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là vấn đề
thời gian”. Đúng là VN đang trong vòng nô
lệ của Trung Quốc và sự tồn tại của dân tộc VN đang bị đe dọa.
Ngày nay đảng cộng sản Việt Nam lấy “chủ nghĩa
Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” làm nền
tảng cho chế độ để xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (cương
lĩnh 2011) và áp dụng “kinh tế thị trường,
định hướng XHCN” làm kim chỉ nam phát triển kinh tế.
Hai vấn đề này gây nhiều tranh luận. Nhưng ngày 23-10-2013, ông Nguyễn
Phú Trọng, TBT đảng Cộng Sản VN tuyên bố trước Quốc Hội: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm, đến hết
thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn
thiện ở VN hay chưa”. Còn ông Viện trưởng Viện chiến lược Bùi Tất Thắng nhận
định về mô hình kinh tế và đổi mới tư duy: -“Kinh tế thị trường, định hướng XHCN trong vòng 15 năm vừa qua là hành
trình – dò đá qua sông – Quá trình này rất dò dẫm về lý thuyết, lý luận. Nhận
thức về mô hình mới vẫn chưa rõ ràng
nên gây khó khăn trong việc hoạch định chính sách”. Một người có quyền lực
cao nhất, một ông hoạch định chiến lược mà nhận định như thế thì không biết tương
lai đất nước sẽ đi về đâu?
Còn tư tưởng Hồ Chí Minh là gì và tại sao ghép nó vào với chủ nghĩa
Mac-Lê? Đó là cái day dứt, đó chính là “khủng hoảng tư duy” của Bộ Chính Trị và
của các cán bộ lý luận cao cấp cùa Đảng CSVN ( theo nhận định cuả ông Vũ Quang
Ninh, cựu Giám đốc Đài phát thanh Tự Do ở Miền Nam trước 1975). Và cũng theo bài
viết của ông Vũ Quang Ninh (ngày 29-11-2009) - “ Theo ký giả Pháp Jean
Lacouture, khi một người ngoại quốc hỏi ông Hồ: sao ông không viết hồi ký như
Mao Trạch Đông, ông ta trả lời: - Mao đã
nói hết rồi, còn gì để nói nữa đâu . Trả lời ông Nguyễn Văn Trấn, cũng là đảng
viên Cộng Sản kỳ cựu, khi ông Trấn đề câp đến tư tưởng chi đạo cho Đảng Cộng sản
VN, ông Hồ trả lời: - Không, tôi chẳng có
tư tưởng gì, ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi chỉ có phương pháp để giải
quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, về
thế giới và xã hội con người thì tôi là học trò của Mác, Ăng ghen, Lênin, chớ
làm gì có tư tưởng ngoài triết học Mác”.
Vậy mà Nghị Quyết của Đại Hội lần VII tháng 6/1991 chỉ thị “phải học tập
và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh” và
ghép nó vào “cái đuôi”của chủ nghĩa Mác Lê để định hướng cho một chính thể!
Trước sự phá sản và sụp đổ quá nhanh chóng ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
chủ nghĩa Mác-Lênin không còn tính thuyết phục, nhưng nếu từ bỏ nó đảng Cộng Sản
Việt Nam sẽ mất hết quyền lực và quyền lợi nên ghép cái đuôi “tư tưởng HCM” vào
để không ai dám chỉ trích cái chủ thuyết lỗi thời này, mặc dù ông HCM đã xác nhận
“tôi chẳng có tư tưởng gì, chỉ có phương pháp để giải quyết thỏa đáng từng vấn
đề”. Đúng thế, ông HCM chỉ nêu lên những phương châm như những lời huấn thị đảng viên: Chí công vô tư - Cần, kiệm, liêm,
chính - Giữ sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình –
Cán bộ là đầy tớ của nhân dân v…v… Nhưng ngày nay các hậu duệ của ông đều làm
ngược lại.
Cũng vì quyền lực và quyền lợi mà trong mô hình phát triển kinh tế cũng
ghép thêm “cái đuôi” XHCN. Nhóm từ ngữ “kinh tế thị trường định hướng XHCN” đến
nay vẫn chưa có luận giải minh bạch, vẫn còn nhập nhằng giữa doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân làm nảy sinh nhóm lợi ích, nạn hối lộ.
Do đó, người ta mới hiểu tại sao sau khi Hoa kỳ dỡ bỏ lịnh cấm vận năm 1994,
hơn 10 năm sau, nền kinh tế VN vẫn không cất cánh được. Mặc dù nhiều dự án và vốn
đầu tư nước ngoài ( FDI = Foreign Direct Investment) tăng vọt:
- Năm 1988 có 37 dự án - vốn đầu tư
371triệu 8 MK.
- Năm 2006 có 970 dự án-vốn đầu tư
12004triệu MK
- Năm 2015 vốn đầu tư ngoại quốc lên đến
24tỷ MK.
Ngoài
ra VN còn nhận được nguồn viện trợ nhân đạo để “xóa đói giảm nghèo” từ các quốc
gia phát triển (nhóm G-7 gồm các nước Pháp, Đức, Ý, Nhật, Anh, Hoa kỳ và
Canada) và được hưởng quy chế “Viện Trợ Chính Thức” (ODA= Official Development Assitance)
nghĩa là được viện trợ không hoàn lại (25%) và được vay với điều kiện ưu đãi. Từ
năm 1993 đến 2004 Ngân hàng Thế gìới cam kết giúp VN 29 tỉ MK (đã giải ngân 14
tỉ). Riêng năm 2004, ngân hàng Phát Triển Á Châu và Nhật Bản tài trợ 2.25 tỉ MK (đã giải ngân 1,65 tỉ) - (
trích từ Tổng cục Thống kê và Cục Đầu Tư Nước Ngoài của chính phủ VN).
Nhưng nguồn ngoại tệ thường xuyên và liên tục đến từ 3 triệu người Việt
sinh sống ở nước ngoài và 400 ngàn nhân công “xuất khẩu lao động” gởi về giúp thân
nhân trong nước là một khối tài chánh đáng kể. Số lượng kiều hối này tương đương
5,7% tổng sản lượng quốc gia (GDP).
Số lượng kiều hối tăng nhanh - từ 170 triệu MK năm 1994 tăng 500 triệu
MK năm 1995 – Năm 2004 tăng lên 2,3 tỉ MK. Đó là chưa kể hằng năm có ba, bốn trăm
ngàn người Việt về thăm quê trao cho thân nhân, bạn bè bằng tiền mặt hay tặng vật.
Ngoài ra chính phủ VN còn thu nhập từ
nguồn tài nguyên thiên nhiên (dầu thô, than đá) lên đến 7,4 tỉ MK trong năm
2005. Số tiền này nằm hoàn toàn trong tay nhà nước. (Theo bản tin của Đài Á Châu
Tự Do-RFA- ngày 10-1-2007).
Vậy mà sau hai thập niên đổi mới VN vẫn còn nằm trong danh sách các quốc
gia nghèo khó. Nhìn sang nước Nhật, Đại Hàn, Đài Loan, họ đã thu ngắn thời gian để tiến lên hàng các quốc
gia phát triển chỉ trong vòng 20 năm. Nước Đức qua kế hoạch Marshall, chỉ hơn
10 năm sau đã trở thành một quốc gia hùng mạnh về kinh tế lẫn chính trị ở Tây Âu.
Còn VN, với một khối lượng tài chánh to lớn đến từ ngoại viện, từ kiều hối,
từ khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên (dầu thô, than đá v…v…) mà theo thống
kê của Liên hiệp quốc năm 2013, bình quân đầu người ở VN là 1,868 USD/người, hơn
Lào (1,589 USD/người) và Campochia (1,008 USD/người). Nếu so với Singapore:
54,649 USD/người; Nhật Bản (38,528USD/người); Hàn Quốc (26,482 USD/người), những
con số chênh lệch đáng buồn cho người dân VN.
Nói theo cách suy nghĩ của người dân Nam Bộ, của các “bà mẹ chiến sĩ”: -Dân
ta buồn, dân ta nghèo khổ - quen rồi! - cực thêm chút nữa chẳng sao – chỉ mong tương
lai con cháu khá hơn và dân mình không phải làm nô lệ cho ai … Dễ thương quá, hiền hoà quá, nhẫn nhịn quá !!!
Bỡi vậy trong hơn 41 qua, dân ta vẫn âm thầm chịu đựng để cho Đảng nắm quyền lãnh
đạo - để cho Đảng “Đổi mới rồi lại sửa sai - Sửa sai rồi ngồi lại - Ngồi lại rồi
lại sửa sai” cứ thế xoay vòng - cha già
thì trao lại cho con quyền cai trị chẳng khác gì thời Phong kiến – cha
truyền con nối …
Ở các nước dân chủ đâu có được như thế, đảng nào được dân tín nhiệm lên
cầm quyền 4 năm, nhiều lắm là 8 năm, chỉ có vài trường hợp đặc biệt kéo thêm một
hai nhiệm kỳ là cùng. Trong khi cầm quyền mà phạm phải sai lầm thì từ chức, người
ta ví von là “văn hóa từ chức”, còn ở VN/ XHCN – sai thì sửa - sửa tới sửa lui
rồi ngồi lại, dân ta gọi là “văn hóa sửa sai- ngồi lại” …
Bây giờ nước đã dâng lên tới nóc - tương lai con cháu và đất nước mịt mờ
nên Dân mới hỏi Đàng. Tham nhũng chỉ là
chuyện nhỏ, dân ta đã quen rồi, nó đã trở thành một nét “văn hoá” đặc thù ở VN
ngày nay - loại “văn hóa bôi trơn XHCN” hay “văn hóa phong bì”… Cho nên nhân dân
chỉ muốn hỏi các vấn đề liên quan đến sự tồn vong và tương lai của dân tộc:
1-Tháng 9-1990 ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười, Phạm Văn Đồng sang Thành Đô ký kết với Trung Quốc những điều gì? Xin Đảng
công bố cho dân biết. Những tin đồn: Đảng đã chấp nhận để VN trở thành một tỉnh
của Trung quốc vào năm 2020 có đúng không?
2-Tổ tiên đã hy sinh xương máu và dày công
xây dựng dải giang sơn gấm vóc này, nay để lại cho toàn thể con dân Việt Nam
hay chỉ riêng cho mấy triệu đảng viên cộng sản mà trước đây ông Phạm Văn Đồng dám
ký công hàm công nhận quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của VN thuộc về
Trung Quốc (14-9- 1958), nay thì Đảng tự tiện cho người Tàu thuê (có nơi bán đứt
có chỗ thì nhượng) đất, rừng, biển, đảo mà không có sự đồng thuận của nhân dân?
3-Đảng có thấy ngày nay hầu như nhân loại
đã chối bỏ chủ nghĩa Cộng Sản vì tính không tưởng và bất cập của nó? - Đảng có
nhìn ra từ lâu hai nước đàn anh Liên Xô, Trung Quốc dùng CNXH để chiêu dụ các
nước Á-Phi nghèo khó làm thành trì bảo vệ cho họ được an toàn phát triển kinh tế
và sức mạnh quân sự để tranh giành ảnh hưởng với các nước Tây phương, còn các
quốc gia chư hầu vẫn loanh quanh trong vòng lệ thuộc không ngóc đầu lên được? Vậy
Đảng ưu việt hơn cả tư duy của nhân loại hay Đảng đang mê muội?
4-Đảng có nghe ông Đặng Tiểu Bình nói: “Không cần biết mèo trắng(mèo vàng), hay mèo đen, chỉ cần bắt được chuột đều là
mèo tốt”. Câu nói cụ thể này đã định hướng cho việc phát triển kinh tế và áp
dụng trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong mấy thập niên vừa qua. Điều
đó chứng tỏ Đặng Tiểu Bình đã bước sang “Chủ nghĩa Thực dụng”. Vậy ngày nào Đảng
Cộng Sản VN không còn “bắt được chuột” cho Trung Quốc thì Đảng sẽ đi về đâu và
những điều gì sẽ đến với dân tộc VN?
5-Ông Nguyễn Phú Trọng đã từng nói: “ Xây dựng XHCN còn lâu dài lắm, đến hết thế kỷ
này không biết đã có XHCN hoàn thiện ở VN hay chưa”. Như vậy thì lâu quá, tính
ra đến ba đời vẫn còn sống trong tăm tối…Vậy Đảng phải thay đổi chế độ nào tốt
hơn, phát triển nhanh hơn cho người dân được hưởng chút Tự Do, Hạnh Phúc trước
khi về cõi … (về cõi là chữ của ông Vũ Cao Quận)
6-Nghe đến chữ XHCN, nhân loại muốn tránh xa, còn nhân dân VN “ngán tới cổ”.
Vậy mà quốc hiệu cũng thêm vào chữ XHCN; Về cơ chế quản lý và phát triển kinh tế
cũng thêm vào chữ XHCN: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” khiến các nhà lý
luận và hoạch định chính sách “lùng bùng” than thở: - Đang “dò đá qua sông (trích
lời của ông Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược). Vậy Đảng nên cắt bỏ chữ XHCN để tránh những mâu thuẫn nội tại hầu tìm ra
một định hướng rõ ràng cho việc phát triển…
7- Đảng nêu khẩu hiệu: - “Chính quyền của
dân, do dân và vì dân” nhưng điều hành việc nuớc thì “Đảng lãnh đạo, nhà nước chỉ
huy, nhân dân làm chủ”. Nhân dân cứ thắc mắc: - Làm ông chủ mà có “đứa” chỉ huy,
có “thằng” lãnh đạo …Vậy thì “làm chủ” cái gì?
8-Hiến Pháp là văn kiện lập quy cao nhất
của Quốc gia, ấn định việc điều hành đất nước. Vậy mà Cương lĩnh Đảng đặt trên
Hiến pháp - Mọi hoạt động phải tuân theo Nghị quyết của Trung ương Đảng. Vậy Đảng
có thấy đây là một nghịch lý, mâu thuẫn
với tinh thần của nền dân chủ pháp trị?
9-Đảng bảo “dân trí” còn kém nên cần Đảng
lãnh đạo - cần Đảng soi đường! Người dân thắc mắc: - 61 năm (1884-1945) thực dân
Pháp đô hộ nước ta đã áp dụng chính sách ngu dân làm cho dân trí không phát triển,
dân sinh không hạnh phúc đã đành…Nhưng từ ngày Cách Mạng Mùa Thu 1945, tính đến
nay đã 71 năm, Đảng đã đào tạo một thế hệ “Ma dzê in VN” đang lãnh đạo đất nước
“dân trí” vẫn còn thấp kém là lỗi do ai?. Tại sao con cháu người Việt ở nước
ngoài học hành giỏi giang, thành đạt, đâu có thua ai. Có phải do Đảng áp dụng
chính sách giáo dục sai lầm và áp dụng chính sách tuyển dụng “hồng hơn chuyên”
mới ra nông nổi?
10-Và tại sao càng ngày càng nhiều người
Việt Nam muốn ra nước ngoài sinh sống, ngay cả những cán bộ đảng cũng tìm cách
chuyển tiền, đưa con em ra nước ngoài và chờ cơ hội thoát khỏi VN ? Khi người
ta không còn tha thiết với quê hương, đành lòng từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của
mình chứng tỏ nơi đó có “vấn đề” và báo trước cho sự suy tàn … Đảng có quan tâm
đến tình trạng này không?
11- Hiện nay ở VN nhiều tổ chức “Xã Hội Dân
Sự” được hình thành. Có phải Dân không còn tin Đảng - Dân phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng và quản lý của nhà nước - Dân tự động liên kết, đứng lên để tự cứu
mình và cứu nước?
Trước hiện tình như vậy, nhiều bậc thức giả đề
nghị Đảng nên mở một cuộc Trưng Cầu Dân
Ý để tìm hiểu nguyện vọng của toàn dân,
từ đó tìm ra quốc sách đúng hướng để cứu nguy dân tộc. Miến Điện đã làm và đã đưa
đất nước họ thoát vòng lệ thuộc TQ và đang tiến đến một tương lai tốt đẹp …Đây
là một bài học thực tiễn về chính tri, xã hội đáng chú ý và học hỏi để rút kinh
nghiệm về “thế Nước – lòng Dân”…
Đảng cứ mạnh dạn tiến hành, đừng lo ai có kinh nghiệm hơn Đảng để cai trị
muôn dân, nước nhà sẽ biến loạn. Người xưa thường bảo: “Tam nhân đồng hành tất
hữu ngã sư”, theo đó Dân sẽ chọn được người tài đức ra giúp nước. Trong Bình Ngô
Đại Cáo, Nguyễn Trải đã viết: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau - Song hào kiệt đời
nào cũng có”. Vậy Đảng chớ lo thiếu người lãnh đạo mà Đảng nên đắn đo chọn lựa:
- Đảng còn thì Nước mất (vào tay TQ) mà
khi Nước mất thì Dân tan !!!
Qua cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ vừa rồi, ông Donald Trump, một người chưa có
kinh nghiệm chính trường như bà Hillary Clinton và bị giới truyền thông “dập”
cho tơi tả … Nhưng cuối cùng ông đã thắng. Tại sao? Câu trả lời ngắn gọn và đầy
đủ nhất là do: “Sức mạnh vô địch của tinh thần Dân Chủ và Dân Tộc”. Thời gian
trước ngày bầu cử, đa số hệ thống truyển thông nghiêng về phía bà Hillary. Bà Hìll
đã chi nhiều tiền cho các hãng truyển thanh, truyền hình và cố gắng tranh thủ khối cử tri da mầu. Mọi cuộc
thăm dò cho thấy bà Hillary luôn luôn dẫn đầu. Đa số người theo dõi cuộc bầu cử tiên đoán bà
Hillary sẽ thắng chắc. Nhưng tinh thần dân
tộc tìềm ẩn của những người da trắng đã trổi dậy, đem lại chiến thắng cho ông
Trump.
Nên nhớ mặc dù ngày nay Hoa Kỳ là một Hiệp Chủng Quốc (đa chủng tộc, đa
văn hóa) nhưng trong suy nghĩ của người da trắng vẫn xem quốc gia Hoa kỳ là của
họ vì tổ tiên họ là những người da trắng Âu Châu đến đây đầu tiên lập nên quốc
gia này. Biết bao hy sinh và công khó của nhiều thế hệ cha ông họ xây dựng nên
một quốc gia Hoa kỳ hùng mạnh. Họ ôm ấp nó, bảo vệ nó và kiêu hãnh với nó. Cho
nên mỗi lần quốc gia Hoa Kỳ lâm nguy, tự ái dân tộc bị xúc phạm, người da trắng
đã đứng lên và họ đã chiến thắng…
Tinh thần Dân Tộc là bất diệt. Ông Hồ Chí Minh biết rõ điều đó và đã bao
lần mượn danh Dân Tộc để cứu Đảng ai cũng biết và sử sách còn ghi. Nhưng khi cứu
được Đảng, ông lại bỏ “cái mũ” Quốc Gia
Dân Tộc xuống, đội “cái mũ” Mac- Lênin lên. Cho nên nhà văn Võ Phiến, một người
sống nhiều năm trong vùng kháng chiến Liên Khu 5 than rằng: Chữ Quốc Gia Dân Tộc
mang nhiều nỗi oan khiên – Khi lâm nguy người cộng sản mang nó ra xài – Khi qua
cơn hoạn nạn họ lại nguyền rủa nó, ai nhắc đến nó sẽ bị trù dập, tù đày.
Tinh thần Dân Tộc bất diệt và nhân
dân là trụ cột giữ cho Quốc Gia trường tồn. Đó là chân lý. Đảng phái chỉ đóng
vai trò trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Tuyên truyển là con dao hai lưỡi
– tuyên truyền lừa bịp, mị dân đem lại kết quả tạm thời, khi sự thật được phơi
bày, thì sẽ có phản ứng ngược.
Trong quyển sách Why Nations Fail (Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại) một công
trình nghiên cứu trong 15 năm của hai giáo sư kinh tế nổi tiếng Daron Acemoglu
và Jame A. Robinson đã nhận đinh: “ Các quốc gia thất bại thường bị cai trị bởi
một nhóm quyền thế tập trung và đã tổ chức xã hội để phục vụ quyền lợi riêng
cho họ trong khi đại đa số nhân dân không có được quyền lợi tương xứng”. Hai tác
giả này cũng khẳng định: : “Thể chế chính
trị và kinh tế là nguyên nhân quyết định sự thịnh vượng hay nghèo đói của một
quốc gia”.
Việt Nam đang rơi vào hai trường hợp này: Không có một thể chế chính trị
minh bạch, hợp lý và không có định hướng cho nền kinh tế. Không phát huy sáng kiến phù hợp với
hoàn cảnh đất nước mình mà cứ theo đuôi, rập khuôn Trung Quốc. Đến khi đàn anh
TQ lộ rõ ý đồ xâm lăng và đã biến VN thành cái sân sau tiêu thụ hàng phế phẩm của
TQ. Đó là chưa nói đến dã tâm đưa vào VN các hóa chất độc hại đầu độc dân ta. Đảng
“quýnh quáng chạy lung tung đi tìm chỗ dựa”.
VN đang theo đuổi chính sách “ngoại giao đu dây”- Nhưng xưa rồi! “Ngoại
giao đu dây” chỉ hiệu quả vào thời điểm chiến tranh lạnh. Bây giờ là thời đại
toàn cầu hóa. Sự tương tác giữa các quốc gia là bình đẳng và sòng phẳng quyền lợi đôi bên, không còn tình
trạng “cưu mang” như mấy chục năm về trước. Một quốc gia hào phóng như Hoa Kỳ,
ngày nay họ cũng đặt quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ lên trên hết. Ngày nay chủ nghĩa
“Quốc Gia Cực Đoan” đang trổi dậy. Chớ có hy vọng hảo huyền Hoa Kỳ sẽ giúp VN
thoát nạn TQ xâm lăng, cũng chớ thấy TQ đang lên mà theo đuôi họ… Một ngày nào đó
hai nước lớn này thỏa thuận chia chát quyền lợi với nhau: “Nị được cái này thì
để cho Ngộ cái kia”, thì cả dân tộc VN sẽ khốn đốn …Vậy hãy khơi dậy vả nuôi dưỡng
tinh thần dân tộc để phát triển “Nội Lực Quốc Gia”. Chỉ có con đường đó mới cứu
nguy Tổ Quốc.
Hãy nghe lời giải bày của Cố Thủ Tướng Singapore Lý Quang Diệu với đại ý
“Trên đời này cá lớn nuốt cá bé, nước lớn hay chiếm nước nhỏ thường xảy ra, hãy
biến “con cá bé” thành “con cá độc”, nuốt vô là chết. Không ai dám nuốt “con cá
độc Singapore” nên Singapore được độc lập, tự chủ và phát triển…”
Mong Đảng sáng suốt nhận ra rằng:
“con cá độc VN” sẽ được sản sinh từ lòng yêu nước, từ tình tự dân
tộc và từ ý chí bất khuất, quật cường của nòi giống, chứ không thể đến từ chủ
nghĩa ngoại lai, lỗi thời Mac-Lênin.
Đảng cũng nên nghiền ngẫm câu nói của người xưa: - Làm thầy thuốc sai lầm,
giết chết một bệnh nhân - Làm công tác văn hóa, tư tưởng sai lẩm sẽ thui chột đôi
ba thế hệ - Làm chính trị sai lầm sẽ giết chết một dân tộc…
Lê Đức Luận.
(Nov 12-2016)
(1)-Ngày 11-3-1945, Vua Bảo Đại công bố bản
Tuyên Ngôn Độc Lập, đặt quốc hiệu Đế Quốc Việt Nam, giao học giả Trần Trọng Kim
thành lập chính phủ.
-Ngày 2-9-1945, Ông Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên Ngôn Độc Lập tại Hà Nôi, đặt tên nước Việt Nam Dân Chủ hòa. Ông Hồ Chí
Minh lên làm chủ tịch nước.
-Ngày 8-3-1949, với Hiệp ước Elysée ký gìữa
Tổng thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại xác nhận nền độc lập của VN,
đặt tên nước Quốc Gia Việt Nam, Bảo Đại làm quốc trưởng.
No comments:
Post a Comment