Kính thưa quý thầy cô & các anh chị,
Nhà thơ Đặng Kim Côn được sinh ra và lớn lên tại Phú Yên,
vì vậy thơ văn của anh luôn nhắc nhở nhiều đến quê hương yêu dấu nơi chôn
nhau cắt rốn của mình.
Ngoài làm thơ anh cũng viết nhiều truyện ngắn, hôm nay
Thukỳ xin gởi đến quý thầy cô & các anh chị một chuyện ngắn: “Xuống
Chó” cùa Đăng Kim Côn. Khi nghe đến
tưa đề chúng ta cũng liên tưởng đến phần nào của cuộc đổi đời “lên
Vua, Xuống Chó”, đọc câu chuyên này làm cho Thukỳ còn in rõ trong tâm
trí hình ảnh những người công an chỉa súng bắt bớ dân lành, hoặc dù
là đàn bà trẻ con như mẹ con Thukỳ cũng bị giải giao trong lúc bị
bắt vượt biên… Những hình ảnh hải hùng đó không bao giờ phai nhạt dù
đã hơn 30 năm qua.
Anh Đăng Kim Côn đã làm cho chúng ta phải bàng hoàng, lo sợ
trong câu chuyện có thật trong xã hội cộng sản, và vẫn còn kéo dài
cho đến hôm nay. Xin mời đọc đế
thấy lòng mình tức tưởi, đớn đau theo thân phận của bao người “Xuồng
Chó” còn đang sống tại quê nhà.
Trân trọng,
Thukỳ.
Xuống chó
Quân nhận ra
ngay nét chữ quen thuộc trên nửa mảnh giấy học trò, mà người thanh niên lạ mặt
mới vừa trao cho anh. Nhét mảnh giấy vốn đã không mấy phẳng phiu, vào túi, anh
lững thững vờ cầm cây chổi quét chầm chậm ra cửa, liếc nhanh một dọc theo con
đường trước nhà, xem có cặp mắt bất thường nào đang láo liêng gần đó không, anh
cảm thấy có chút gì không yên lòng.
Thời buổi làm gì
cũng ngó trước ngó sau, những phó thường dân như Quân ít khi được nới lỏng sự
canh chừng. Đỡ cái là nhà nằm ngay mặt tiền của đường lớn, đối diện chợ, nên
thường có người ra vô gửi hàng, lấy hàng, xin nước uống, nên cũng làm chùng bớt
những vòng dây bó siết kia. Quân trở vào, rót nước mời người khách lạ:
– Đi bây giờ?
– Nó đang chờ.
Đi sớm còn kịp có xe về, dạo này xe chiều hết khách sớm.
Quân lúng túng
hỏi tên và nhà người đưa thư, để xác định nơi phải đến, hai đứa con nhỏ ở nhà
một mình, mười mấy cây số, mà thực tình lúc này trong túi không có lấy một đồng
để đi xe, mà Chí cần mình chuyện gì vậy? Nếu đến đó mà Chí nói nó cần tiền thì
mình lấy gì giúp nó đây. Anh biết tình cảnh của nó, một người lính cũ, người
lính, mà trước kia theo nó nói là nó mê anh như người mê ma túy, và đó là lý do
nó gia nhập binh chủng của Quân. Quân cũng cứ mặc nhiên nghĩ vậy, không để ý
tới chuyện tới tuổi quân dịch thì mạnh ai nấy chui, kiếm được chỗ nào đỡ chiến
đấu vẫn tốt hơn, trong đó, cùng với Chí, một vài người bạn văn thơ của nó, đã
có dịp quen Quân trước đó, cũng cùng chui như Chí, với hy vọng may ra được về
chung đơn vị Quân cho vui. Từ đó họ trở thành thân thiết như anh em trong gia
đình, dù là có chút không như ý, mỗi người mỗi đơn vị khác nhau.
Quân được coi
như ông anh tinh thần, thương yêu, đùm bọc lo lắng cho những đứa em, đặc biệt
anh quý Chí, người mà anh thấy là có khả năng nhất trong đám bạn bè nói nhiều
hơn làm của nó, cũng có thể vì Chí nói năng khéo léo, chịu khó khen Quân hoặc
ra vẻ chịu nghe lời như một đứa em. Chí cũng vậy, ông anh như đã trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần, ít ra cũng theo nó thường nói.
Quân không có tên tuổi gì đặc biệt, nhưng có một vài bất ngờ khiến Chí ngưỡng
mộ. Thư từ, viết lách, hay về phép, đi công tác gì gì, Quân vẫn là người để Chí
dành cho nhiều thời gian nhất, nếu Quân không ở nhà thì Chí cũng tìm đến nơi
đơn vị Quân đóng.
Từ khi ra trại
về, Quân sống khép kín, ngày ngày một thân hiu hắt ở ngoài mấy sào ruộng, rồi
về lẩn quẩn trong nhà với hai đứa con mới vừa mồ côi mẹ mấy tháng. Anh ít giao
du với bạn bè, nhất là bạn bè mới của cái xóm làng mà anh chỉ mới bắt đầu về ở
sau ngày gia đình bị đuổi từ thành phố về, lại càng ít nhớ tới, ít muốn nhớ
những quen biết cũ (vốn không ít người đã trở thành người khác, nếu không phải
là người mới, người của xã hội mới), trong đó anh có nghe nói Chí (mà nhà cửa ở
đâu, gia đình thế nào anh cũng chưa hề biết) vượt biên bị lộ, trốn đi đâu đã
lâu lắm rồi. Và cũng có phần cảm động, tháng trước Chí bất ngờ xuất hiện, cùng
với mấy người bạn lạ mặt, được Chí giới thiệu là bạn từ miền Nam về, “ghé thăm
Chí và thắp nhang cho chị.”
Sĩ diện, Quân
không để Chí thấy sự nhút nhát của mình, dù thật ra anh rất lo lắng trước sự có
mặt của họ, mà sau đó, trong ngày, kéo theo nhiều đợt bạn bè của Chí đến thăm,
nhỏ to một cách bất thường. Quân có phần hiểu ra, “chẳng thảo gì mèo ăn than”,
họ mượn sự thăm viếng này để họp hành thảo luận chuyện lớn gì đó, mà theo Chí,
“xin lỗi anh, may có lý do thắp nhang này, anh em mới qua mặt được bọn nó.”
Rất may, các
cuộc họp chớp nhoáng đó chỉ từng chặp, từng chặp vài người. Chừng hơn một buổi
là Chí từ giã, để lại nỗi lo âu canh cánh từng ngày, không biết
đến lúc nào, mấy
chiếc nón cối sẽ ập đến nhà, hỏi thăm. Quân đã từ một đội hùng binh phải “buông
cương chiến mã” một cách tức tưởi, anh không tin mình có thể làm được gì với
bắt đầu bằng tay trắng. Quá nhiều những cuộc trấn áp, quá nhiều những chiếc bẫy
giăng khắp nơi, và cũng đã không ít những bầu nhiệt huyết phải ôm hận trong tù
hay không kịp nhắm mắt ngoài pháp trường, cũng bắt đầu từ chỗ tình thân không
nỡ từ chối.
“Anh đi theo
người cầm lá thư này”, mấy chữ ngắn ngủi kia chưa kịp làm cho Quân bất mãn.
Lòng thương quí dành cho Chí khiến Quân dễ dàng tha thứ cái giọng điệu có vẻ ra
lệnh trịch thương kia của nó. Chắc nó có gì khó khăn? Chắc tại không tiện viết
nhiều hơn? Chắc nó đang có gì cần đến mình? Dẫu sao mình cũng đang núp dưới vỏ
bọc của một gà trống nuôi con, chắc thiên hạ không đến nỗi cạn tàu ráo máng. Đi
thì đi.
Bên kia đường là
chợ nên con đường trước mặt nhà cũng gần như một cái bến xe Lam, vì xe dừng
liên tục cho khách lên xuống. Làm như đứng hút thuốc nhìn vu
vơ, thấy không
có ánh mắt nào khả nghi đang rình rập quanh đó, Quân bảo Hổ, tên người đưa thư:
– Chú coi xe nào
sớm nhất lên ngồi trước đi, sắp đầy, sẽ có tôi.
Và Quân dạo qua
hàng xóm mượn ít tiền.
Kịp bữa trưa ở
nhà Hổ, nhưng Quân chỉ ngồi uống nước chờ cho Chí ăn với gia đình Hổ. Vội vã
đi, cũng chưa kịp ăn gì, nhưng Quân biết, thời buổi của gạo cân vải mét, tính
từng nhân khẩu, một miệng ăn “phát sinh” phải là một khó khăn cho gia đình.
Không khí nhà
quê yên ắng, có lẽ Chí cũng biết chọn một một nơi đáng tin cậy, ít cơ nguy bị
phát hiện nhất, nhưng chính cái vắng vẻ này, sự có mặt của người lạ lại càng dễ
gây chú ý, cho nên Quân cũng thấy không mấy yên tâm.
Cơm xong, nơi
bàn uống nước, còn lại ba người, Quân, Chí và Hổ. Quân hỏi ngay:
– Em có sao
không? Làm anh lo quá.
Quân không phải
thắc mắc lâu, chẳng những không có gì để Quân phải lo lắng cho nó mà còn phải hiểu
rõ Chí hôm nay không phải ở dưới thấp như một người lính ngày xưa, hoặc ngược
lại thì Quân cũng chả còn là một sĩ quan hay cấp trên gì nữa! Làm như không để
ý câu hỏi của Quân, Chí vào đề ngay:
– Tôi biết anh
không có nhiều thời gian… (hay nói khéo là tôi không có nhiều thời gian?), nên
anh nghe cho kỹ, là, có mấy chỉ thị cho anh, hiện nay, lực lượng thì cái gì
cũng có, nhưng để có kế hoạch lâu dài, muốn tấn công địch thì ta cũng cần có
đường rút, nói rõ là chúng ta cần căn cứ, cần mật khu. Cấp trên chưa đòi hỏi gì
anh, chỉ yêu cầu anh, cái này họ cũng biết là trong khả năng anh, cung cấp cho
lực lượng một vài tấm bản đồ tỉnh này, và một cái địa bàn trong thời hạn ngắn
nhất.
Thật là đất trời
lộn lại! Quân uất nghẹn.
Không biết ai
phong cho nó cái quyền điều khiển anh như vậy? Không biết từ bao giờ cái lớp
lang bị đảo ngược như vậy? Địch đã cướp mất đi của mình mọi giá trị xã hội đã đành,
tự trong chúng ta, còn một chút giá trị tinh thần hiếm hoi cũng bị đập phá ư?
Giậu đổ bìm leo, muốn leo sao không mang dép râu, đội nón cối, theo chúng làm
một chức sắc nho nhỏ, cỡ đội phó, đội trưởng sản xuất, hay kế toán, thư ký gì
đó, thì dưới tay cũng có được đám dân đen để mà hò hét lấy oai?
Cuộc đời không
thể là một tuồng hát, đổi vai đơn giản thế này. Ồ, mà nó lỡ mấy lần vượt biên
thì ai tin cậy nó mà giao nhiệm vụ!
Nén giận, Quân
đốt một điếu thuốc, làm như suy nghĩ, mà không phải suy nghĩ, là sẽ hợp tác như
thế nào. Anh kìm chế sự đổi khác trên nét mặt, danh lợi gì, yêu nước gì trong
bóng tối của những đôi mắt lòa kia? Có lần thằng Nam nói, tao phong cho mày làm
tỉnh trưởng, Quân cười, mày thử phong tao làm tổng thống đi, coi tao có làm
không? Có điều, không khéo, chúng nó bịt miệng mình như chơi, không bịt miệng,
nó bán mình mình thì còn khổ hơn nữa. Rít thêm vài hơi thuốc lấy bình tĩnh, mặc
kệ nó có còn nhận tiếng “anh” mà Quân xưng hay không, Quân nhìn thẳng vào mặt
Chí nhẹ nhàng:
– Anh không thể
hứa điều gì, anh đã ở tù lâu quá rồi, hiện cũng đang bị quản chế, bị theo dõi
ngày đêm. Trong hoàn cảnh gà trống nuôi con hiện nay, anh vất vả quá. Nói thật,
đi như thế này là anh thương em, anh lo không biết em có bị gì không, chứ thật
ra anh cũng hồi hộp lắm. Có gì không ai nuôi hai đứa nhỏ mồ côi. Mà không khéo,
sự xuất hiện của anh ở đây sẽ làm lộ hình tích của em.
Chí ngắt lời:
– Vậy anh có thể
có cái gì?
– Em tìm cách
giúp anh, cho anh lọt sổ đi, được không? Chắc anh phải về.
Thiệt tình. Nó nghĩ
nó leo lên đầu mình được chắc? Bằng những con người loạn thị này lại có thể dập
nổi ngọn lửa thắng lợi đang bừng bừng khí thế kia sao? Có phải “ông lính” nghĩ,
hắn chỉ kém hơn “thằng quan” vài lớp thì chưa biết ai hơn ai? Hay được dịp để tự
nó lập nên một trật tự mới “ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”?
Không phải ai
cũng như Chí, từ mấy chục cây số, có người đến cả hàng trăm cây số, đã tìm tới
nhà anh, đi bộ mấy cây số ra ruộng, thăm “ông thầy cũ”. Hay tại vì nó không
phải là người lính trực thuộc dưới quyền? Vậy mà thật cũng khó xua được cái
hình ảnh lếu láo, nghênh ngang của Chí ra khỏi nỗi lòng vốn quá tình cảm của
Quân.
Hình ảnh đó lẩn
quẩn mãi cho đến một ngày, đùng đùng giữa buổi sáng đang làm việc tại một xưởng
dệt (mà gia đình anh có đóng cổ phần, gọi là núp bóng, có công ăn việc làm,
khỏi bị chính quyền đẩy đi kinh tế mới), lố nhố hàng chục bộ nón cối dép râu,
sắc phục công an có, thường phục cũng có, còng tay Quân, đọc lệnh bắt và khám
xét khẩn cấp.
Vừa sợ, vừa lo,
vừa giận, nhưng Quân vẫn đủ bình tĩnh để nhếch mép cười, như coi thường sự đọa
đày sống chết, mà đáng lẽ anh đã phải nộp mạng từ những năm trước.
Người bạn cùng
xưởng thương tình, gắn vội điếu thuốc lên môi Quân, anh lí nhí nói cám ơn. Điếu
thuốc rơi xuống đất. Anh lại cười khấy khi người ta bắt đầu
đẩy anh ra cửa,
hướng về phía trại giam, cách đó chưa tới một cây số.
Hai công an lăm
lăm hai khẩu AK47 lừ lừ phía sau Quân. Nắng chói chang, trải hơi nóng bất
thường trên con đường nhựa. Người qua lại trên đường ái ngại nhìn Quân, trong
đó cũng không ít những người quen biết.
Mẹ đã già, vừa
mãn tang chồng lại tiếp tang dâu, vợ Quân. Một bầy con và cháu ngơ ngác, vật vã
mỗi ngày chờ bà tha mồi về. Cho tới lúc này, Quân vẫn chưa thấy mình giúp được
gì cho mẹ, công việc mỗi ngày ở xưởng dệt nếu ăn sáng một đĩa xôi, uống một ly
café, hút một điếu thuốc lá thơm thì không đủ, lời lãi gì của xưởng chảy hết
vào túi bọn quản lý đục nước béo cò bất lương (tất nhiên để chảy êm vào túi,
một con số không nhỏ phải được kín đáo nhét vào túi các quan trên có trách
nhiệm liên quan), ai cũng biết mà không thốt nên lời. Hôm nay, hai đứa con dại,
mồ côi mẹ, lại thiếu thêm cha, sẽ lại rủ nhau ngồi trước cửa vào giờ cha sắp
về…
Thoáng qua đầu
rất nhanh, Quân nhớ tới lời nhắn qua bạn bè của Chí mấy tuần trước “Nói với
Nam, Sĩ, Tề, Quân… liệu đường, Chí đã khai hết rồi” (?). Vậy có phải vì những
lời khai này? Nếu bị hỏi, mình có nên nói gì bất lợi cho Chí không? Và nhất là
còn bảo vệ được mình. Quân ngoái đầu lại, hỏi gã công an trẻ:
– Anh có biết
tại sao bắt tôi không?
Hắn nhát gừng:
– Không nghe
lệnh bắt à? Nhen nhóm phản động, tổ chức ám sát cán bộ…
Quân lầu bầu:
– Cái đó thì
nghe rồi. Phản động gì, đói thí bà…
– Đợi lát gặp
đồng bọn rồi biết!
– Gì đồng bọn?
Quay hụt hơi, chơi với ai đâu mà đồng bọn.
Gã công an chửi
thề, theo giọng Bắc từ mấy “sư phụ Bắc” của gã, sửa lại dây súng trên vai, hạ
mũi súng về phía Quân:
– Địt mẹ, nên
nhớ, cách mạng không bắt oan ai đâu.
Quân nhớ ra, tay
này ở cùng xóm, là bạn cùng lớp với thằng em thứ năm của anh. Thời thế tạo anh
hùng! Quân im lặng, những cái chết giữa ban ngày, ngay trước mắt bàn dân thiên
hạ không hiếm, nói bị chống đối, giựt súng, bỏ chạy, là xong, mọi việc sẽ đâu
vào đó.
Con đường nặng
nề im ắng một lúc, Quân ngao ngán ngó ngang ngó dọc, chợt bắt gặp những ánh mắt
người qua kẻ lại nhìn Quân tò mò, Quân ở vào cái thế không anh hùng cũng không
được, anh đi khệnh khạng, nhìn đất nhìn trời, một cách không mong tới, mà lại mong
có ai quen biết gần nhà mình, để gia đình có thể biết tin tức sớm hơn một chút.
Họ rẽ vào một
con đường đất, vắng vẻ và đầy đe dọa hơn. Quân biết không bao lâu nữa là tới
trại giam, bất chợt lòng anh dâng lên một nỗi ngao ngán vô cùng tận, anh quay
lại gã công an:
– Tôi nói chơi
chứ các anh thiên lôi sai đâu đánh đó làm sao biết được.
Chạm phải mặc
cảm thiên lôi của gã, gã nổi nóng, lại bắt chước giọng mấy cán bộ miền Bắc:
– Mày láo, tao
bắn gục đầu tại chỗ bây giờ. Tao đi bắt mày mà không biết tại sao à?
Cổng trại giam
đầy vẻ âm u, bí hiểm đang nằm ngay trước mắt, thoáng qua đầu thật nhanh những
cảnh tra tấn rợn người, không chịu nổi đau đớn sẽ chuyện không thành có, sẽ vô
tội thành có tội. Cứ cho là vậy, hơn ai hết, Chí phải biết Quân đã có làm gì
hay không chứ! Thêm mấy bước, Quân càng có cảm giác sắp bước vào địa ngục, anh
níu kéo trần gian:
– Tôi đã chết từ
lâu rồi, các anh có quyền bắn mà, ở tù còn khổ hơn chết.
Quân cũng không
cần lường hậu quả của câu nói có vẻ thách thức kia. Đường nào cũng là địa ngục
thôi!
Cánh cổng đã mở
toang ra, mười mấy bậc cấp xuống dần, xuống dần, chừng như sâu tới một ngày mai
thăm thẳm.
Đặng Kim Côn.
No comments:
Post a Comment