Ông Lê Quang
Uyển, người có trách nhiệm giữ 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia (NHQG), tài sản
của Việt Nam đã qua đời tại Chiang Mai, Thái Lan thọ 81 tuổi. Ông sinh Tháng
Chín năm 1937 và mất ngày 26 Tháng Giêng năm 2018. Nhân dịp 49 ngày ông mất,
tôi xin có bài sau đây.
Trong giới
kinh tế tài chính, nhất là vào những năm chót của chính thể Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH), ai cũng biết đến Thống đốc trẻ tuổi của Ngân Hàng Quốc Gia là ông Lê
Quang Uyển.
Sau khi tốt
nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales) tại Paris năm 1960, ông Lê Quang Uyển về
Việt Nam phục vụ. Ông đã làm một thời gian ngắn làm cho Ngân Hàng Pháp Á (BFA –
Banque Francaise de l’Asie). Sau đó ông Lê Quang Uyển cũng như nhiều chuyên
viên trẻ khác cũng bị động viên vào quân đội và lên đến cấp bậc đại úy.
Từ quân đội
ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng Thống,” một ngạch công vụ của
VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào
tạo để trở thành các nhà lãnh đạo tương lai trong ngành kinh tế, tài chính,
giáo dục; các công ty của chính phủ – nhà đèn, công ty đường, Air Vietnam,… Và
sau này có thể có những trách nhiệm cao cấp trong chính phủ. Ngạch này được
thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để kéo các chuyên viên giỏi phục vụ
cho chính phủ VNCH.
Trong cương
vị này, ông đã tham gia nhiều chuyến đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong
đó có chuyên viếng thăm Manilla. Sau này ông đã được đề nghị giữ ghế thống đốc
Ngân Hàng Quốc Gia.
Người ta nhớ
nhất về Thống Đốc Uyển là những việc sau:
Chuyện Tín Nghĩa Ngân
Hàng (TNNH hay Con gà đẻ trứng vàng), một xì-căng-đan thời VNCH
Lúc đó Tín
Nghĩa Ngân Hàng là một trong những ngân hàng có tiếng tại Việt Nam, có nhiều
chi nhánh tại Sài Gòn, Chợ Lớn và tại các tỉnh (năm 1969, sau khi đậu cao học
kinh tế tôi có về làm tập sự tại ngân hàng ở VN và được gởi đi nhiều chi nhánh
để biết về các nghiệp vụ tài chính ngân hàng).
Ban thanh
tra ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia có trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ cho
vay của mọi ngân hàng có mặt tại Việt Nam. Một người trong nhóm thanh tra có
báo cáo “sơ hở” trong quy trình cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng và việc này đã
trở thành xì-căng-đan tài chính tại Việt Nam. Ông Nguyễn Tấn Đời, chủ tịch kiêm
tổng giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng đã dùng một số bộ hạ, người thân tín trong
gia đình để vay các tín dụng. Ông quên rằng những việc làm này cũng khó mà qua
mắt các thanh tra ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia. Những người đi vay mà tài sản
quá thấp làm sao có thể thế chấp để đi vay một số tín dụng khổng lồ của Tín
Nghĩa Ngân Hàng. Thật ra thì ông Nguyễn Tấn Đời đã sử dụng những người này, đứng
tên vay tiền cho cá nhân ông, rồi ông dùng số tiền tín dụng này để đầu tư cho
cá nhân ông.
Thời đó chưa
có tin học hay máy computer, nên muốn kiểm tra phải tới tận nơi và khám xét trực
tiếp các hồ sơ cho vay (các sổ sách và tính toán đều làm bằng tay hoặc bằng máy
NCR). Thống Đốc Uyển đã trình Tổng Thống Thiệu và thảo luận với ngành cảnh sát
hình sự để giúp Ngân Hàng Quốc Gia đánh giá các hồ sơ cho vay của Tín Nghĩa
Ngân Hàng.
Thống Đốc Lê
Quang Uyển đợi lúc ông Nguyễn Tấn Đời đi nghỉ ở Đà Lạt, để gởi các thanh tra
ngân hàng làm cuộc truy tìm các hồ sơ tín dụng gian lận của Tín Nghĩa Ngân
Hàng. Các thanh tra chặn mọi cánh cửa của Tín Nghĩa Ngân Hàng ở bến Chương
Dương không cho hồ sơ thoát ra ngoài. Trụ sở Tín Nghĩa Ngân Hàng không xa Ngân
Hàng Quốc Gia, có lẽ độ 1,000 m và cùng ở Bến Chương Dương. Qua việc kiểm tra
này, các thanh tra đã tìm thấy các hồ sơ tín dụng “dởm.” Lúc đó ông Nguyễn Tấn
Đời là một tổng giám đốc ngân hàng rất mạnh, có nhiều người che chở và việc kiểm
tra sổ sách của Tín Nghĩa Ngân Hàng là một kỳ công – phải được tổ chức như một
chiến dịch quân sự.
Qua việc
thanh tra này ông Lê Tấn Đời đã bị đưa ra tòa. Ông bị tuyên án và phải vào khám
Chí Hòa. Như thế, Thống Đốc Lê Quang Uyển đã làm đúng trách nhiệm của NHQG là
thanh tra chặt chẽ hệ thống ngân hàng thương mại dưới quyền ông. Qua việc này,
ông đã chận đứng các lạm dụng trong ngành tài chính.
Việc giúp các chuyên
gia khối kinh tế tài chính – gởi đi làm việc tại các bộ
Một khó khăn
của VNCH trong những năm 1970 là thiếu ngân sách và khó tuyển mộ chuyên viên vì
lương thấp. Trong kinh tế, muốn có thăng bằng ngân sách thì chính phủ sẽ bán một
số công khố phiếu ra cho công chúng. Với tiền công khố phiếu, chính phủ dùng bù
đắp thâm hụt ngân sách.
Ngân Hàng Quốc
Gia có nhiệm vụ tham gia vào các chính sách tiền tệ và có đóng góp qua việc mua
một số công khố phiếu của chính phủ. NHQG mua một số công khố phiếu và tiền lời
của công khố phiếu được bỏ vào một quỹ của Ngân Hàng Quốc Gia. Thống Đốc Uyển
quyết định dùng số tiền lời này, để trả lương cho nhân viên kinh tế tài chính –
mà lúc đó VNCH đang rất thiếu – và cần một số lời được chia cho nhân viên của
Ngân Hàng Quốc Gia. Qua việc này, ông thống đốc giúp bồi đắp vào chỗ hổng tài
trợ chuyên viên, mà trước đây cơ quan USAID tài trợ nhưng ngân khoản viện trợ lại
ngày càng giảm. Qua việc này, một số chuyên gia đã được gởi đi làm tại các bộ
như Tài Chính, Nha Thuế Vụ hay Bộ Kế Hoạch, nói chung mọi nơi cần chuyên gia.
Ông cũng có
chương trình kéo các chuyên viên tài chính ngân hàng trẻ gia nhập NHQG, gầy dựng
nhân sự cho tương lai ngân hàng. Một số người trẻ, có khả năng và có tay nghề
được tuyển mộ vào NHQG làm trong văn phòng thống đốc.
Ngoài việc
dùng quỹ tiền lời công khố phiếu, Thống Đốc Uyển còn sử dụng Quỹ Phát Triển
(QPT) Kinh tế Quốc Gia mà ông làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) gởi các
chuyên viên của QPT đi giúp các bộ. Quỹ Phát Triển là một chi nhánh – thành phần
của NHQG được vốn của Hoa Kỳ (USAID) trợ giúp. Ngoài việc tái tài trợ các ngân
hàng phát triển Việt Nam (Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển
Nông nghiệp, SOFIDIV…) Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia có một số chuyên viên trẻ
được gởi đi trợ giúp các Bộ Kế Hoạch, Bộ Tài Chính qua việc tham gia vào công
tác xây dựng Kế Hoạch Phát Triển Hậu Chiến, nhất là sau khi Hiệp Định Paris được
ký kết.
Thống Đốc Lê
Quang Uyển cũng cố vấn cho Tổng Thống Thiệu chọn người trong khối kinh tế tài
chính, trong đó có việc giới thiệu ông Nguyễn Văn Hảo vào Quỹ Phát Triển và sau
này làm phó thủ tướng đặc trách về kinh tế tài chính.
Giữ 16 tấn vàng cho Việt
Nam
Trong những
ngày chót của VNCH, Hoa Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân Hàng
Trung Ương tại New York (một việc làm bình thường vì đa số các nước đều có
trương mục với ngân hàng FED New York). Sau khi bàn bạc, Thống Đốc Lê Quang Uyển
quyết định gởi các thoi vàng qua Thụy Sĩ, tại Ngân Hàng Banque International
Ressettlement – BIR ở Basle.
Theo kinh
nghiệm thế giới, nhiều chính phủ Âu Châu trước đây, khi bị Cộng Sản xâm chiếm họ
đã gởi vàng dự trữ tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc
gia. Một kế hoạch đã được lập lên để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ chứ không phải
sang Hoa Kỳ. NHQG đã cho mướn một chuyến may bay để chở số vàng này qua Thụy
Sĩ.
Trong lúc hỗn
loạn của những ngày miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và
máy bay được mướn chở vàng không thể đáp xuống Tân Sơn Nhất, vì vậy kế hoạch gởi
vàng qua Thụy Sĩ không thực hiện được.
Vào những
ngày chót, một số nhân viên ngân hàng cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ
liên lạc với nhau nhằm bảo vệ tài sản cho Việt Nam. Thống Đốc Lê Quang Uyển tử
thủ trong NHQG và chỉ mở cửa NHQG khi Cộng Sản mang nhiều xe tăng đến định bắn
vào NHQG.
Cộng Sản lúc
nào cũng phao tin đồn là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước
ngoài trong khi nhiều người cũng kể công về việc giữ số vàng này. Vậy sự thật
ra sao? Bài báo sau đây của nhân chứng nói về kiểm tra vàng tại NHQG do báo Tuổi
Trẻ đăng:
Bài viết của
tác giả Huỳnh Bửu Sơn trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:
“…Những ngày
đầu Tháng Năm, 1975, tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia ở 17 Bến Chương
Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người.
Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác.
Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.
Lần kiểm kê
cuối cùng… Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng
tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết
lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và
vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng
số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.
Trong những
ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được chúng tôi quản lý một
cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với
hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa
và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.
Đại diện Ban
Quân Quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt
quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất
thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là
Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.
Số vàng đúc
lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại
tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự Trữ Liên
Bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi – Công ty
Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số
vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ
Lào.
Tất cả những
thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có
khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong
những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp
khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của
vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền
vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ
có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác
nhau…
Ngoài giá trị
của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp
nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều
được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một
sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng
tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc,
ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách điện
toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc
bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít
nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại.
Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của
những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia…”
Tác giả Huỳnh
Bửu Sơn cũng liệt kê từng tủ và từng hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng:
1.234 thoi vàng.”
Qua việc bảo
tồn tài sản quốc gia, việc này cho thấy là các công chức của NHQG và người đứng
đầu là Thống Đốc Lê Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm túc – với tinh thần
trách nhiệm của một công chức. Đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy
(tình thần trách nhiệm) và rất trung thực. Thống Đốc Lê Quang Uyển là một tấm
gương soi sáng cho thế hệ trẻ – cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền
Nam.
Thống Đốc Lê Quang Uyển
và tù cải tạo
Ông Uyển,
cũng như nhiều người khác, đã phải đi cải tạo trên 3 năm trong Nam (1975-1979).
Trái với ông phó thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia là ông Dõng, ông Uyển không trình
diện liền khi Cộng Sản kêu gọi thành phần nội các ra trình diện học tập (họ
không biết là thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia có hàm bộ trưởng.) Ông Phó Thống Đốc
Dõng đã ra trình diện và bị chết trong trại tù Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa. (Tôi
còn gặp bà Dõng tại Sài Gòn sau khi bà bị trục xuất ra khỏi nhà tại NHQG, khi
tôi đi cải tạo về vào năm 1979).
Ông Uyển là
một sĩ quan VNCH cấp bậc đại úy và đã ra trình diện khi Cộng Sản gọi các sĩ
quan cấp đại úy trình diện. Ông bị đi tù cải tạo 3 năm.
Ông Lê Quang
Uyển đã đi Pháp cùng vợ vì bà vợ, chị Geneviève LyLap (một huynh trưởng nữ hướng
đạo hệ Scout et Guide de France, bà là công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại Sứ
Pháp tại Sài Gòn).
Năm 1981,
ông Uyển tham gia vào ngân hàng Banque Indosuez. Ông được gởi làm giám đốc chi
nhánh tại Saudi Arabia và ở đây đến 1990. Ông đứng đầu chi nhánh “Al BankAl
Saudi Al Fransi” (Saudi French Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Ả Rập
Saoudi. Sau 1990, ông Lê Quang Uyển được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của
ngân hàng Indosuez tại nhiều nước khác nhau.
Ông Lê Quang
Uyển đã về hưu tại Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có
tư cách và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Trong dịp 49 ngày ông qua đời (ba
má và gia đình ông Lê Quang Uyển theo đạo Cao Đài), tôi viết vài hàng này để đề
cao tinh thần trách nhiệm của cựu Thống Đốc Lê Quang Uyển.
Với tư cách
một chuyên viên trẻ đã từng có thời gian làm việc với ông, tôi xin thành kính
chia sẻ nỗi buồn với chị Uyển trong sự mất mát này và cầu mong ông sớm được về
miền Cực Lạc. (TS. Đinh Xuân Quân)
California,
Chủ Nhật, 18 Tháng Ba, 2018
(*) TS
Đinh Xuân Quân là cựu nhân viên Quỹ Phát Triển trực thuộc NHQG. Ông là cựu giáo
sư Đại Học Luật Khoa, Ban Kinh Tế, Đại Học Saigon (khóa 1974-1975). Hiện nay
ông là chuyên gia, cố vấn kinh tế cho Liên Hiệp Quốc (UNDP+World Bank) và USAID
tại nhiều nước như Afghanistan, Iraq, Indonesia…
No comments:
Post a Comment