Hoa hậu Việt đầu tiên là VNCS: Tai tiếng ái tình, hơn nửa đời sống xứ người
Cuộc thi sắc đẹp năm 1955 được tổ chức ở miền Nam Việt Nam nhân lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng được coi là cuộc thi hoa hậu đầu tiên của Việt Nam.
Người đăng quang ngôi vị cao nhất là bà Công Thị Nghĩa, khi ấy mới 23 tuổi. Phía sau danh hiệu hoa hậu đầu tiên của Việt Nam là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn với cuộc đời thăng trầm hơn nửa đời gửi nơi xứ người.
Bà Công Thị Nghĩa sinh năm 1932 trong trong một gia đình tiểu tư sản ở làng hoa Ngọc Hồi, Hà Nội và là chị cả trong gia đình có 3 chị em.
Bà vốn dòng dõi họ Ông, tổ tiên là Ông Nghĩa Đạt đã đỗ Bảng nhãn và làm quan tới chức Phó Đô Ngự sử dưới thời vua Lê Thánh Tông. Hiện vẫn còn văn bia đề tên vị Bảng nhãn này tại Quốc Tử Giám. Về sau vua Tự Đức đổi họ Ông thành họ Công. Công Thị Nghĩa theo gia đình di cư vào Nam năm 1942.
Năm 1950, khi mới 18 tuổi, bà tham gia hoạt động Việt Minh, trở thành một thành viên của tổ điệp báo hoạt động ở nội thành Sài Gòn - Gia Định, lấy bí danh Tư Nghĩa.
Năm 1952, bà bị thực dân Pháp bắt và giam giữ, phải chịu đủ loại cực hình tra tấn. Về sau bà bị chuyển về khám lớn Sài Gòn, địa điểm nay là thư viện tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1953, bà được luật sư Nguyễn Hữu Thọ biện hộ và được xử trắng án.
Rời khỏi cảnh ngục tù, Công Thị Nghĩa theo nghề ký giả, lấy nhiều bút danh để viết báo, truyện ngắn, thơ… trong đó có Thu Trang, bút danh gắn liền với bà cho đến hiện tại.
Rất tình cờ, khi Thu Trang được giao đi lấy tin về cuộc thi hoa hậu năm 1955, một số người quen đã khuyên bà tham gia. Không ai có thể ngờ cô ký giả Thu Trang chỉ “tham gia cho vui” nhưng lại đoạt luôn vương miện. Bước ngoặt đó đã làm thay đổi cả cuộc đời bà.
Thu Trang đoạt giải hoa hậu trong cuộc thi sắc đẹp đầu tiên của Việt Nam. Bà nhận được rất nhiều phần thưởng giá trị lớn như xe máy, kiềng vàng, mỹ phẩm...
Với tư cách là hoa hậu, bà được mời đóng phim và đã chạm ngõ điện ảnh với phim Chúng Tôi Muốn Sống, vai Kiều Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên (đạo diễn Tống Ngọc Hạp).
Năm 1957, Thu Trang và đạo diễn Tống Ngọc Hạp mang Lục Vân Tiên sang Nhật làm hậu kỳ đồng thời tham dự Đại hội điện ảnh châu Á tại đây. Về sau, trong cuốn hồi ký Một Thời Để Nhớ, bà đã gọi năm 1957 là một năm “vinh quang và đau đớn”.
Là một cô gái trẻ không có chút kinh nghiệm nào trong tình yêu, Thu Trang nhanh chóng rơi vào mối tình với đạo diễn Tống Ngọc Hạp. Bà có thai ngay tháng đầu tiên tại Nhật. Bi kịch của cuộc tình chóng vánh này nằm ở chỗ vị đạo diễn đã có vợ.
Trở về Việt Nam cùng với đứa con trong bụng, chờ đợi Thu Trang là bùa rìu dư luận thời bấy giờ. Bà gọi quãng thời gian đó là “thảm cảnh” và “giông bão phũ phàng”. Phim Lục Vân Tiên cũng bị tẩy chay, không chỉ thất bại về doanh thu mà còn bị các nhà phê bình chỉ trích một cách thậm tệ là "vết nhơ" đối với văn chương cổ điển Việt Nam.
Từ một hoa hậu được săn đón, được trải thảm đỏ mời tới các sự kiện, mời đóng phim, Thu Trang trở thành nhân vật chính trong tai tiếng khủng khiếp khi chỉ mới 25 tuổi, bị xã hội chỉ trích nặng nề.
Đứng trước vô vàn áp lực, bà vẫn quyết định giữ lại đứa con trong bụng. Bà đặt tên cho con là Tống Ngọc Vân Tiên, một mình nuôi con và chưa từng một lời oán thán.
Bên cạnh mối tình đau khổ đó, người ta còn hay nói về bà như là nàng thơ trong lòng thi sĩ Bùi Giáng. Câu thơ nổi tiếng “Còn hai con mắt khóc người một con” trong bài thơ Mắt Buồn được cho là nói về hoa hậu Thu Trang.
Năm 1959, đạo luật 10-59 ra đời. Thu Trang được khuyên rời khỏi Sài Gòn để tránh nguy cơ bị chính quyền Ngô Đình Diệm tra xét lần nữa. Năm 1960, với tư cách diễn viên điện ảnh, Thu Trang được mời sang Pháp để đóng một bộ phim. Khi đến nơi, bà mới biết đó là một bộ phim ca ngợi thực dân đô hộ và chống chế độ Cộng sản, bà đã từ chối tham gia.
Thu Trang quyết định ở lại Pháp và xin vào học Trường Cao học về lịch sử và triết học – thuộc Đại học Sorbonne. Bà đã phải vừa học vừa làm gia sư, thông dịch viên… để trang trải chi phí cho bản thân và con trai.
Tại trường học, bà thân quen với các sinh viên ủng hộ phong trào chống Mỹ tại Việt Nam, một trong số đó về sau đã trở thành người bạn đời của bà. Năm 1978, bà lấy được bằng tiến sĩ sử học tại đại học Paris VII.
Thu Trang và một số công trình nghiên cứu sử học của bà. Bà có nhiều nghiên cứu về Phan Chu Trinh và Bác Hồ thời hoạt động ở Pháp.
Bên cạnh việc nghiên cứu sử học, bà vẫn theo đuổi đam mê văn chương, sáng tác và xuất bản văn thơ, hồi ký. Cuối năm 1990, trong một buổi gặp gỡ nhóm các nhà thơ, nhà văn Việt Nam được tổ chức tại Huế, bà đã được bình chọn là một trong 100 nhà thơ Việt Nam được yêu mến của thế kỷ XX.
Thu Trang cũng hoạt động rất tích cực trong việc giúp đỡ các du học sinh Việt Nam tại Pháp. Bà từng là thành viên đoàn chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Pháp, nguyên tổng thư ký Hội Khoa học xã hội của Hội Người Việt Nam tại Pháp.
Ở tuổi 90, bà vẫn sống tại Pháp với chồng là tiến sĩ Y học Marcel Gaspard, người bà quen biết khi còn học ở đại học Sorbonne. Do bà rất kín tiếng về quá khứ của mình, những người xung quanh đều chỉ biết đến bà với tư cách tiến sĩ Sử học chứ không phải hoa hậu đầu tiên của Việt Nam.
No comments:
Post a Comment