Wednesday, June 12, 2019

CÂU CHUYỆN VỀ ĐẠI PHÚ HÀO NGUYỄN VĂN HẢO, VÀ CUỘC SỐNG NGHÈO TÚNG CON CHÁU HIỆN NAY.

Câu chuyện về đại phú hào Nguyễn Văn Hảo và cuộc sống nghèo túng của con cháu hiện nay trong biệt thự triệu đô


Ông Nguyễn Văn Hảo là một trong những thương gia người Việt
giàu có nhất ở Sài Gòn từ thời Pháp thuộc cho đến những năm 1975.
Tuy nhiên kể từ sau năm 1975, con cháu của ông bị lâm vào hoàn
cảnh rất khốn khó do sự biến đổi của thời cuộc. Mời bạn đọc theo
dõi bài viết này để biết về cuộc đời đầy vinh hoa phú quý của
Nguyễn Văn Hảo, cũng như hoàn cảnh túng thiếu hiện nay của
người con duy nhất của ông.
Ngay trung tâm Sài Gòn có một tòa nhà kiến trúc Pháp tuyệt đẹp
tọa lạc ở bốn mặt tiền đường.
Trên mặt tiền ngôi nhà (phía đường Trần Hưng Đạo và hai bên hông
Ký Con – Yersin) có khắc dòng chữ NG.V.HAO nên những người
sống xung quanh thường gọi đó là tòa nhà Nguyễn Văn Hảo.
Đó từng là nhà của một thương gia nổi tiếng cả miền Nam: Nguyễn
Văn Hảo – một trong những thương gia giàu có nhất ở Sài Gòn từ
thời Pháp đến năm 1975.
Ông Nguyễn Văn Hảo cũng chính là ông chủ của rạp Nguyễn Văn
Hảo lẫy lừng một thời, được ví là nhà hát “hàng không mẫu hạm”
có sức chứa tới hàng ngàn người và là thánh đường của cải lương.
Tuổi thơ ở ruộng đồng
Ông Nguyễn Văn Hảo sinh năm 1890, quê ở ấp Long Thuận, xã
Nhị Long, H.Càng Long (Trà Vinh). Nhìn vào gia sản đồ sộ mà ông
Hảo từng sở hữu, nhiều người sẽ có suy nghĩ ông phất lên một phần
do thừa hưởng gia sản của ông cha để lại. Tuy nhiên, ông Hảo xuất
thân trong một gia đình trước đó mấy đời đều làm nông. Cha của
ông có ba người vợ. Ông Hảo là con thứ ba của người vợ thứ ba.
Những năm tháng tuổi thơ, theo những người trong gia đình kể lại,
cậu bé Hảo chỉ quanh quẩn ở quê. Chưa bao giờ cậu bé Hảo lại nghĩ
có một ngày mình sẽ lên Sài Gòn lập nghiệp.
Một người anh cùng cha khác mẹ của ông Hảo là ông Nguyễn Văn
Kiệu, làm chủ một cửa tiệm buôn bán phụ tùng xe hơi ở đường
Nguyễn An Ninh (Q.1). Công việc làm ăn phát đạt, ông Kiệu cần
thêm người phụ giúp. Quay qua ngó lại anh em trong gia đình, ông
Kiệu thấy ông Hảo là người thông minh, lại lanh lợi, phù hợp cho
việc kinh doanh. Thế là ông Kiệu xin phép cha đưa em trai lên Sài
Gòn phụ mình buôn bán phụ tùng xe hơi.
Lên Sài Gòn, công việc đầu tiên mà ông Hảo làm là phụ anh trai
mình buôn bán. Vốn là người thông minh, ở quê được cha cho ăn
học dù không nhiều, ông Hảo đã học những bài học cơ bản từ người
thợ đi trước. Cứ ai giỏi là ông Hảo đeo theo để học. Chẳng mấy
chốc từ người thợ học nghề, ông Hảo thành người thợ chính tại tiệm
buôn bán phụ tùng xe của anh mình.
Ngoài việc rành kỹ thuật để sau này mở tiệm không để thợ qua mặt,
những ngày làm công ở tiệm anh trai, ông Hảo đã âm thầm học cách
kinh doanh, mối lái buôn bán phụ tùng xe hơi với tham vọng mở
một cửa hàng riêng cho mình sau này. Sau khi đã ổn định công việc,
ông Hảo đưa vợ mình lên Sài Gòn. Năm 1929, vợ ông sinh người
con trai đầu đặt tên Nguyễn Tâm Thạnh. Thời gian này, sau khi tích
lũy một số vốn liếng, ông Hảo xin phép ông Kiệu cho phép mình ra
lập nghiệp riêng. Được anh trai đồng ý, ông Hảo mở tiệm buôn bán
phụ tùng xe hơi ở số 21 – 23 đường Galliéni, sau này đổi thành
đường Trần Hưng Đạo.
Cửa tiệm trên được ông Hảo thuê lại của gia đình Chú Hỏa, một

trong những người giàu có nhất Sài Gòn. Song song với buôn bán
phụ tùng xe hơi, trước cửa hiệu, ông Hảo mở một cây xăng bơm tay
để kinh doanh thêm xăng, dầu nhớt. Không biết đó có phải là cây
xăng tư nhân mở đầu tiên ở Sài Gòn hay không nhưng với độ nhanh
nhạy, số lượng cây xăng ở Sài Gòn chỉ đếm trên đầu ngón tay, nên
đa phần khách mang xe đến sửa chữa, thay thế phụ tùng, khi quay
ra chỉ biết đổ ở cây xăng ông Hảo.
Những năm đầu 1930, ở miền Nam, nhất là các tỉnh miền Tây,
ngành giao thông, vận tải đường bộ phát triển. Khắp nơi rộ lên
phong trào thành lập các hãng xe đò để chở khách. Các tiệm mua
bán phụ tùng xe hơi làm không hết việc.
Tiệm bán phụ tùng xe của ông Hảo nằm ở trung tâm Sài Gòn, chỉ
cách chợ Bến Thành mấy bước chân, hàng nhập cảng bán đúng giá
lại càng thu hút khách, nhất là giới tài xế miền Tây lên Sài Gòn mua
phụ tùng thay thế. Khi đó ở Sài Gòn cũng có vài cửa hàng mua bán
phụ tùng xe hơi nhưng chỉ có cửa hàng ông Hảo đủ lớn để cạnh
tranh với các tiệm người Pháp trong vùng.
Cạnh tranh với người Pháp
Hạn chế của các hãng do người Pháp làm chủ là nhân viên ít nói
tiếng Việt, trong khi đa phần giới tài xế lại không rành tiếng Pháp
nên ngại vào, họ thích qua tiệm của ông Hảo để mua hàng.
Khi chuyện kinh doanh mở rộng, ông Hảo giao phần lớn việc kinh
doanh phụ tùng cho vợ, còn mình chỉ phụ trách việc giao dịch với
bạn hàng Pháp để mua phụ tùng về bán. Vợ ông Hảo ngoài việc có
duyên buôn bán còn là người chịu thương, chịu khó. Bất cứ giờ nào,
kể cả 2 – 3 giờ sáng, nếu có khách gọi cửa, bà đều sẵn sàng bán dù
thứ khách mua chỉ lời không hơn một đồng.
Vợ ông Hảo còn có kiểu kinh doanh khá đặc biệt. Đó là khi tài xế
tới mua hàng, bà chỉ hỏi: “Chú là chủ xe hay tài xế?”. Nếu là tài xế,
ngoài việc bán đúng giá, bà Hảo còn trích ra vài cắc cho họ có thêm
lộ phí đi đường, cà phê, ăn sáng. Cách làm của bà Hảo giống như
kiểu “khuyến mãi” bây giờ. Dù số tiền “lại quả” không đáng là bao
nhưng lại thu hút giới tài xế tìm đến cửa hàng.
Nhờ kiểu kinh doanh gần gũi, bình dị và lấy công làm lãi đó mà
tiệm của ông Hảo dù mới mở nhưng kẻ mua người bán tấp nập, tiền
đếm mỏi tay. Kinh doanh ngày càng phát đạt nên ngoài cửa tiệm
chính ở Sài Gòn, ông Hảo kết hợp với một người bà con ở Trà Vinh
mở thêm chi nhánh dưới miền Tây.
Khoảng năm 1933, ông Hảo mua mảnh đất nằm ở bốn mặt tiền
đường – mà nay là Trần Hưng Đạo – Ký Con – Yersin – Hồ Văn
Ngà – để xây nhà. Đồng thời, ông cũng trả lại cửa tiệm ở số 21 – 23
đường Galliéni (nay là đường Trần Hưng Đạo) cho gia đình chú Hỏa.

Ngôi nhà 4 mặt tiền
Việc xây nhà bốn mặt tiền bắt đầu từ năm 1933 cho đến năm 1937.
Tòa nhà có diện tích 800m2, được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp.
Gạch bông lót nền nhà được đưa từ Pháp qua. Do lúc đó chưa có xi
măng nên phải lấy mủ cây trộn với vôi cát, nước để xây. Hai bên
hông nhà có khắc chữ “NG.V.HAO”. Tầng trên cùng của tòa nhà
có một hồ bơi nhỏ, tuy nhà có hai lầu nhưng có gắn cả thang máy.
Về chỗ mới, ông Hảo vẫn kinh doanh phụ tùng xe hơi, xăng dầu.
Đến khoảng năm 1940, khi công ty đủ mạnh, vốn liếng dồi dào, ông
Hảo nhập xe hơi nguyên chiếc về bán ở Sài Gòn. Những thương
hiệu xe hơi mà ông Hảo nhập về là Fiat, Lancia, Nash… được bày
bán phong phú như các showroom xe hơi ngày nay.
Mỗi lần ông Hảo nhập về 2 – 3 chiếc Nash, sau đó nhập xe hiệu
Fiat, Lancia… Giá xe hơi khi đó chừng 2.000 đồng bạc Đông
Dương (1 đồng đổi được 17 franc Pháp). Ngoài việc buôn bán xe
hơi, garage của ông Hảo còn làm luôn chuyện sửa các loại xe (do
hãng bán cũng như các hiệu khác), cạnh tranh ngon lành với các
garage Charner bán xe Peugeot, garage Auto Hall bán xe hiệu
Citroen, garage Scama bán xe Ford của người Tây nằm gần đó.
Ông Hảo còn làm đại diện vỏ ruột xe hơi của Hãng Michelin
(Pháp) – một thương hiệu được ưa chuộng và rất thịnh hành ở
Sài Gòn thời gian đó. Cái hay của ông Hảo là dù kinh doanh mặt
hàng xe hơi dành cho dân có tiền nhưng ông không bao giờ phân
biệt sự sang hèn của khách.
Cũng chính vì cung cách làm ăn niềm nở như thế nên một lần garage
xe của ông Hảo tiếp một vị khách hết sức đặc biệt.
Một buổi sáng khi garage vừa mở cửa, có một vị khách trông rất
quê mùa, mặc áo dài khăn đóng khá cũ vào hỏi mua xe hơi. Nhân
viên bán hàng tính ra đuổi vì nghĩ ăn mặc như vậy thì không thể có
tiền mua xe hơi mà có khi tính đường chôm chỉa. Nhưng ở gần đó,
ông Hảo vừa tính sổ sách vừa quan sát nên nhân viên không dám vô
phép.
Vị khách này sau khi coi xe đòi nhân viên đề máy. Ông khách nghe
tiếng máy kêu êm êm xong cất tiếng hỏi ngắn gọn: “Bao nhiêu tiền?”
. “Gần 3.000 đồng bạc”, anh nhân viên trả lời mà giọng vẫn e dè.
Ông khách mở cửa ngồi lên xe nhún vài cái rồi nói: “Hình như nhíp
hơi kêu. Anh cho thêm miếng dầu vô nhíp đi”. Nói xong, vị khách
kêu tính tiền.
Sau cuộc mua bán nhanh gọn, ông Hảo sai người đưa chiếc xe ra
cây xăng trước nhà tính “khuyến mãi” cho khách một thùng xăng
đầy. Tuy nhiên, vị khách không chịu mà chỉ “xin” 5 lít. Ông Hảo
ngạc nhiên hỏi lý do. Lúc này vị khách mới kể thực ra ban đầu ông
không thích nhãn hiệu xe Nash của ông Hảo đang bán mà thích
chiếc xe Ford (Mỹ) bán ở garage Scama người Pháp (nằm trên
đường Lê Lợi hiện nay). Trước đó, ông khách đã ghé garage này
để hỏi mua. Tuy nhiên, viên quản lý người nước ngoài và nhân viên
khi thấy bộ dạng rách rưới và kỳ quái của khách đã đuổi khách đi.
Ông ta buộc phải tìm qua hãng xe của ông Hảo.
Đổ xăng xong, vị khách sai người làm chở xuống garage xe đã đuổi
ông, rồi tới trước mặt vị quản lý người Pháp nói ngắn gọn bằng
tiếng Pháp: “Vì mày đuổi nên tao phải qua garage ông Nguyễn Văn
Hảo mua chiếc này. Bây giờ tao chạy xe qua tiệm mày để mua xăng”.
Nghe vị khách kể lại, ông chủ người Pháp đuổi việc luôn cả viên
quản lý người Pháp và nhân viên người Việt.
Vụ đó, ông Hảo lời 600 đồng Đông Dương sau khi bán được chiếc
xe Nash. Sau khi tính tiền và làm thủ tục xong, ông khách rút sau
lưng cái mo cau gập làm đôi trong đó từng xấp tiền 100 đồng bạc
Đông Dương nhiều không thể tả.
Sau này tìm hiểu ông Hảo mới biết vị khách lập dị kia là một trong
những người giàu nức tiếng ở miền Tây khi đó, từng là bạn khá thân
với ông Trần Trinh Trạch (thường gọi Hội đồng Trạch) – thân phụ
của công tử Bạc Liêu.
“Hàng không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo
Là người mê cải lương nên khi kinh doanh phát đạt, ông Nguyễn
Văn Hảo mua đất xây dựng nhà hát mang tên ông. Nhà hát này một
thời được coi là “thánh đường” của giới cải lương có sức chứa
hơn 1.200 khách.
Người con trai độc nhất của ông Hảo là Nguyễn Tâm Thạnh, năm
nay cũng đã 86 tuổi, cho biết dù là dân kinh doanh nhưng do lớn lên
ở miền Tây nên ông Hảo rất mê cải lương. Trước nhà có một gánh
hát bội nhỏ nên thường những tối cuối tuần sau những giờ kinh
doanh căng thẳng, ông Hảo lại ghé xem hát.
“Cha tôi xây dựng rạp Nguyễn Văn Hảo với mục đích ban đầu là
phục vụ sở thích cải lương của mình. Thêm nữa, ổng muốn nghệ
thuật cải lương có một nhà hát đẳng cấp để phát triển”, ông Thạnh
hồi tưởng.
Khoảng đầu những năm 1940, ông Hảo mua đất để xúc tiến xây
dựng rạp Nguyễn Văn Hảo. Mặt tiền của rạp hướng về đường
Galliéni (nay là đường Trần Hưng Đạo), một con đường tráng nhựa
rộng lớn và huyết mạch từ Sài Gòn đi Chợ Lớn. Cửa hậu của rạp
Nguyễn Văn Hảo trổ ra đường Bùi Viện.
Theo soạn giả Nguyễn Phương, rạp Nguyễn Văn Hảo có ba tầng
khán phòng. Tổng cộng số ghế cho khán giả trong rạp là 1..200 ghế,
chưa kể ghế phụ đặt dọc theo đường đi khi gánh hát bán hết vé
chính thức. Đây là rạp hát có nhiều số ghế nhất ở Sài Gòn nên được
các nghệ sĩ gọi là “hàng không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo.
Ở khoảnh đất mặt tiền còn lại giao các đường Galliéni và Bùi Viện,
mỗi bên ông Hảo xây hơn 10 căn phố lầu để cho thuê. Góc đường
mũi tàu Bùi Viện, Kitchener (nay là đường Nguyễn Thái Học) và
Galliéni, là cửa lên lầu hai của vũ trường Tour D’Ivoire (Tháp Ngà).
Trong những năm từ 1943 đến năm 1954, Sài Gòn có bốn rạp dành
cho hát cải lương: rạp Nguyễn Văn Hảo, rạp Aristo ở đường Lê Lai,
rạp Thành Xương ở đường Yersin, rạp Thuận Thành ở Đa Kao.
Trong số các rạp này thì rạp Nguyễn Văn Hảo là rạp hát lớn nhất,
có sân khấu rộng và sâu nhất, khán giả đến xem đông nhất. Đây
chính là những thuận lợi giúp cho các bầu gánh, soạn giả và họa sĩ
thực hiện những tiến bộ kỹ thuật và nghệ thuật để nâng cao trình độ
của sân khấu cải lương.
Rạp là nơi đoàn Việt Kịch Năm Châu diễn tuồng Tây Thi gái nước
Việt. Đây cũng là nơi đoàn cải lương Hương Mùa Thu của ông bầu
Thu An thực hiện kỹ thuật sân khấu cải lương panorama rất mới lạ
với dân trong nghề lúc bấy giờ.
Đoàn cải lương Hoa Sen (đoàn hát có doanh thu cao nhất trong các
đoàn hát cải lương cuối thập niên 1950) của ông bầu Bảy Cao cũng
về hát ở đây. Các đoàn hát đều mang một ý thức chung là khi về
“hàng không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo trình diễn thì nhất định
đoàn phải có tuồng mới, có những tranh cảnh, y trang mới và nhất
định là phải có những cải cách kỹ thuật, mới và đẹp hơn những lần
trình diễn trước, phải đẹp và hấp dẫn hơn các đoàn hát khác.
Ông Nguyễn Tâm Thạnh, con trai ông Hảo, cho biết thời vàng son
cải lương của rạp Nguyễn Văn Hảo kéo dài chừng 30 năm. Đến năm
1970, ông Hảo cho ông Nguyễn Văn Đối mướn lại rạp sửa sang
một số công năng để làm rạp… chiếu bóng.
Khi trở thành một trong những người nổi tiếng giàu có ở Sài Gòn,
việc làm ăn đang thuận buồm xuôi gió thì ông Hảo lại bất ngờ về
quê, xây chùa ở ẩn…
Năm 1960, tỷ phú Nguyễn Văn Hảo tròn 70 tuổi. Ở giai đoạn này
mọi công việc ông làm đều diễn ra suôn sẻ và thuận buồm xuôi gió.
Thế nhưng vào tuổi về chiều, dường như ông muốn tìm đến sự yên
tĩnh để có thời gian chiêm nghiệm lại những gì đã qua.
“Chùa ông Hảo” hay Hảo Tâm tự
Giao lại hết mọi việc kinh doanh cho vợ con, ông Hảo trở về quê
nhà ở Càng Long (Trà Vinh) mua một miếng đất rộng 15ha để xây
dựng một ngôi chùa. “Chùa ông Hảo” hay Hảo Tâm tự có từ đó.
Chùa ông Hảo được xây dựng theo thiết kế của kỹ sư Phan Hiếu
Kỉnh, trên khuôn viên đất rộng 8000m2. Đây là một ngôi chùa có
nét kiến trúc độc đáo nửa tây nửa ta. Chùa có ngôi tháp 9 tầng, có
phù điêu rạp hát Nguyễn Văn Hảo và chiếc du thuyền của ông.
Việc xây dựng chùa diễn ra khá chậm bởi vật liệu mua từ Pháp được
chuyển từ xa đến trong khi giao thông khó khăn. Phải mất 8 năm
ngôi chùa mới hoàn thành.
Gần chùa, ông còn cho xây thêm một dãy phố lầu và một ngôi chợ
để người dân địa phương lui tới mua bán, tạo điều kiện để bà con
sinh sống. Chùa xây xong cũng là lúc chiến sự đến hồi ác liệt.
Người dân bỏ cả ruộng vườn tìm nơi lánh nạn. Họ đã tìm đến chùa
được ông cho tá túc và giúp đỡ lương thực, thuốc men.
Ngoài ra, ông còn tạo điều kiện bằng cách cho bà con mượn đất
quanh chùa để trồng trọt, cấy hái phụ vào miếng ăn hàng ngày.
Những người có tuổi ở Càng Long hiện nay không ai có thể quên
được thiện tâm của ông. Ông rất giàu nhưng biết sẻ chia cho bà con
cùng khổ.
Ngôi chùa được ông ủy nhiệm lại cho vợ ông là bà Nguyễn Thị Dài
đứng ra chăm sóc nhang khói thờ tự sau khi ông mất. Hết đời bà
Dài, ông Nguyễn Tâm Thạnh, con ông Hảo sẽ kế tiếp, tiếp tục
chăm sóc ngôi chùa. Ý nguyện này được ông Hảo đã cho khắc
chúc thư bằng đá trắng để tại chùa.
Ngày nay trở lại nơi đây, ngôi chùa đã trở thành phế tích. Thế
nhưng, hình ảnh ông Hảo vẫn còn phảng phất đâu đây. Rõ nét nhất
có lẽ là trên bức phù điêu còn sót lại hình ảnh rạp hát Nguyễn Văn
Hảo, chiếc du thuyền của ông dùng rong ruổi từ Sài Gòn về Càng
Long, dãy biệt thự hương thôn…
Tâm sáng, lòng son
Ông Hảo mất năm 1971. Năm 1975, chính quyền tiếp quản ngôi
chùa. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Dài tiếp tục ở chùa cho đến năm
1979 bà mất. Huyện Càng Long thu lại toàn bộ khu vực này.
Bên cạnh chùa hiện nay vẫn còn một khu đất được xem như nghĩa
trang gia tộc của ông Hảo. Ở nghĩa trang nhỏ này có 6 phần mộ
trong đó có vợ chồng ông cùng mẹ ruột, mẹ vợ. Cả 6 ngôi mộ này
đều xây dựng giống nhau. Trên mộ có hình quyển sách và 4 góc
đều có sư tử đá.
Năm 1996, cháu nội ông Hảo nghe lời cha trở về nơi đây cất một
cái chòi ở cạnh chùa để sinh sống và có điều kiện sớm hôm nhang
khói. Về sau, khu vực này được chính quyền sử dụng làm bệnh
viện, rồi thư viện, sau cùng là khu vui chơi cho trẻ em.
Ngẫm lại, cả cuộc đời ông Nguyễn Văn Hảo chỉ có chí thú làm ăn.
Đồng tiền ông kiếm được phải trả bằng những giọt mồ hôi pha lẫn
nước mắt. Về cuối đời, ông còn xây chùa, tạo điều kiện giúp người
cơ nhỡ.
Khác với những đại gia khác, khi đạt được những thành quả tốt đẹp
đôi khi sa ngã vào những tệ nạn. Với ông Hảo, từ một thanh niên
tay trắng, ông làm nên một sản nghiệp lớn lao. Ông không để lại
một điều tiếng gì ảnh hưởng đến thanh danh và sự nghiệp.
Tâm ông trong sáng. Tấm lòng ông son sắt. Một doanh nhân như
thế thực rất đáng để cho mọi người học hỏi và noi gương.
Xót xa ngôi chùa nổi tiếng thành hoang phế
Ngôi chùa của ông Nguyễn Văn Hảo, có tên gọi là chùa hảo Tâm,
với quần thể kiến trúc xây bê tông cốt thép kiên cố bị bỏ hoang
nhiều năm.
Liên quan đến ngôi chùa Hảo Tâm bị bỏ hoang là nỗi đoạn trường
gian nan 40 năm khiếu nại xin lại ngôi chùa, xin lại đất của những
thế hệ con cháu ruột cụ Nguyễn Văn Hảo.
Từ xa nhìn lại quần thể chùa Hảo Tâm vẫn bề thế, uy nghi nhờ thiết
kế bê tông cốt thép kiên cố dù đã tồn tại hơn nửa thế kỷ
Từng là địa chỉ sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng
Ông Nguyễn Tâm Triều (SN 1963, đăng ký thường trú tại phường
Nguyễn Thái Bình, quận 1) hiện trú tại chùa Hảo Tâm (tổ 8, khóm
4, thị trấn Càng Long, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh) cho biết:
ông nội ông là cụ Nguyễn Văn Hảo – người dành rất nhiều của cải
và tâm sức tạo lập nên ngôi chùa Hảo Tâm từng là địa chỉ văn hóa
tín ngưỡng tâm linh nhưng đã bị bỏ hoang trên 30 năm qua.
Theo các tài liệu ông Triều cung cấp, vào các năm 1928, 1932,
1933, cụ Nguyễn Văn Hảo có mua 5 thửa đất tại xã Mỹ Cẩm, tổng
Bình Khánh Thượng, tỉnh Vĩnh Bình (nay thuộc khóm 4, thị trấn
Càng Long, huyện Càng Long, Trà Vinh), tổng diện tích 151.602m2.
Sau khi mua, toàn bộ diện tích đất trên cụ Hảo quản lý, sử dụng.
Đến năm 1960, cụ Hảo xin phép xây dựng chùa Hảo Tâm Tự trên
khu đất này và được quận trưởng Càng Long chấp thuận.
Chùa Hảo Tâm được kỹ sư Phan Hiếu Kinh thiết kế với kiến trúc
độc đáo, cầu kỳ, được xây dựng kiên cố bê tông cốt thép, có thể
coi là một trong những công trình bề thế, hiện đại nhất của đất
Càng Long thời bấy giờ. Điểm nhấn của quần thể kiến trúc văn
hóa tâm linh này là tòa “cửu phẩm” – một ngọn tháp cao 9 tầng
thiết kế mái cong, họa tiết rồng chầu. Xung quanh ngôi chùa là hệ
thống tiểu cảnh với hồ nước, vườn hoa, cầu cuốn.
Cạnh chùa, cụ Hảo cho xây dựng dãy nhà 16 căn gồm một lầu một
trệt khang trang, trên tường có đắp nổi một số bức phù điêu họa tiết
rất tinh tế, dùng để cho các tăng ni và tín đồ phật tử ở. Cùng thời
gian này, cụ Hảo còn mua đất và cho xây 6 căn nhà khác ở phố chợ
thị trấn Càng Long. Sau khi công trình được khánh thành và đưa
vào sử dụng, chùa Hảo Tâm trở thành một địa chỉ sinh hoạt văn hóa,
tín ngưỡng của đông đảo nhân dân huyện Càng Long và vùng lân
cận. Khi đã có tuổi, cụ Nguyễn Văn Hảo cùng vợ là bà Nguyễn
Thị Dài chuyển từ Sài Gòn về khu chùa Hảo Tâm để tiện bề nhang
khói và quản lý nhà đất.
Năm 1966, cụ Hảo và bà Dài làm đơn hiến chùa Hảo Tâm và các
căn nhà tại chợ thị trấn Càng Long cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam
quản lý với điều kiện khi còn sống thì vợ chồng cụ hưởng hoa lợi từ
tài sản và duy trì hoạt động của chùa Hảo Tâm theo đường lối của
Giáo hội Phật giáo. Năm 1971 cụ Hảo qua đời, được an táng tại khu
mộ gần khuôn viên chùa Hảo Tâm; bà Dài tiếp tục quản lý tài sản,
duy trì hoạt động của chùa Hảo Tâm.
Sau năm 1975, bà Dài vẫn tiếp tục sinh sống, quản lý ngôi chùa
Hảo Tâm. Ngày 1/7/1976 Viện trưởng Viện hóa đạo (Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tại Sài Gòn) có Công văn số 0133 do đại đức Thích
Quảng Độ ký, gửi bà Nguyễn Thị Dài (vợ ông Nguyễn Văn Hảo)
thông báo về việc trước đây bà có hiến ngôi chùa Hảo Tâm cho
Giáo hội và Giáo hội đã giao cho Ban đại diện giáo hội Phật giáo
tỉnh Trà Vinh trông coi.
Nhưng nay vì thiếu nhân sự nên Giáo hội Trà Vinh đã hoàn trả lại
ngôi chùa Hảo Tâm trong văn thư số 012-BĐD/VP ngày 19/10/1975
và đã báo cáo Giáo hội Trung ương về việc này. Giáo hội Trung
ương cũng đã đồng ý và kể từ ngày đó giáo hội không còn trách
nhiệm gì về ngôi chùa Hảo Tâm nữa. Tất cả những giấy tờ liên quan
đến ngôi chùa, giáo hội sẽ hoàn trả lại bà ngay khi làm xong thủ tục.
Tại Công văn số 0184 ngày 26/9/1976 cũng do đại đức Thích Quảng
Độ ký nêu rõ: Viện hóa đạo đã thông báo việc trao trả ngôi chùa
Hảo Tâm đến UBND huyện Càng Long (tỉnh Trà Vinh) bằng Văn
thư số 0300-VHĐ/VP ngày 24/10/1975. Như vậy gần 10 năm sau
khi làm thủ tục hiến chùa cho Giáo hội Phật giáo nhưng được Giáo
hội “trả lại”, bà Dài đã nhận lại ngôi chùa và các tài sản, tiếp tục sinh
sống và duy trì nhang khói, quản lý ngôi chùa.
Tuy nhiên sau đó có việc Ủy ban cách mạng huyện Càng Long đã
thu nạp toàn bộ đất đai, tài sản của cụ Nguyễn Văn Hảo tại huyện
Càng Long, trong đó có chùa Hảo Tâm. Ngày 24/9/1976, bà Dài có
tâm thư kính gửi UBND cách mạng huyện Càng Long xin cứu xét
liên quan đến việc huyện thu nạp chùa Hảo Tâm.
Theo đó, bà Dài có nguyện vọng xin lại ngôi chùa và phần diện tích
lân cận (nghĩa trang có mồ mả thân tộc) để thờ tự, xin lại 15 công
rẫy và 48 công ruộng để canh tác và được chính quyền chấp thuận
bằng cách có để lại một phần nhà (5 phòng) và 5 công ruộng cho bà
Dài sinh sống.
Năm 1979, bà Dài qua đời thì chính quyền thu lại toàn bộ chùa và
nhà, đất khiến ông Nguyễn Tâm Thạnh là con trai cụ Hảo tiếp tục
khiếu nại xin lại phần chùa và nhà đất. Như vậy, từ năm 1976, gia
đình cụ Hảo đã có đơn xin lại ngôi chùa và nhà đất, tài sản liên quan
nhưng vẫn không được giải quyết hợp lý, hợp tình.
Công trình bề thế thành phế tích
Sau khi bà Dài mất, ngôi chùa Hảo Tâm bị huyện Càng Long thu
nạp lại. Ông Nguyễn Tâm Thạnh (86 tuổi, con cụ Hảo) nghẹn ngào
kể lại: “Quá trình thu nạp ngôi chùa, hầu hết những tài sản quý như
đồ thờ đều bị kê biên đem đi. Một số tượng phật, đồ thờ khác thì bị
giam vào một phòng kín trong chùa, trải qua thời gian, bụi bẩn, ẩm
mốc tàn phá gây xuống cấp trầm trọng. Nhiều căn phòng trong dãy
nhà 16 căn xây kiên cố bê tông cốt thép cạnh chùa sau đó cũng bị
đập bỏ…”
Cũng thời gian này, nhiều hộ dân chiếm dụng diện tích đất xung
quanh chùa Hảo Tâm sinh sống, xây dựng nhà cửa, dựng quán bán
hàng khiến gia đình ông Thạnh phải đệ đơn khiếu nại.
Theo quan sát hiện trạng, mặc dù bị bỏ hoang nhiều năm nhưng do
kiến trúc kiên cố, bê tông cốt thép nên nhìn từ trên lộ, chùa Hảo
Tâm trông vẫn khá bề thế với mái vòm và tòa tháp 9 tầng uy nghi.
Tuy nhiên đến gần quan sát, mới thấy xót xa cho công trình văn hóa
tâm linh bề thế bị bỏ hoang, cỏ mọc rậm rạp, quanh đó là các quán
xá do các hộ dân chiếm dụng “muôn hoa đua nở”. Trên bức tường
chùa, chen lẫn với biển quảng cáo gội đầu, sơn móng là những nét
vẽ bậy nghuệch ngoạc, nhem nhuốc. Duy chỉ một bức phù điêu đắp
nổi cảnh đồng quê là còn nguyên vẹn, trơ gan cùng tuế nguyệt.
Ông Nguyễn Tâm Thạnh kể lại: “Ngày 12/12/1989, cuộc họp tại
UBND huyện Càng Long do Phó Chủ tịch Trần Văn Khoảnh chủ
trì đã đồng ý trao trả lại 6 căn nhà phố chợ thị trấn Càng Long cho
tôi – Nguyễn Tâm Thạnh (con trai cụ Hảo).. Tuy nhiên, ngay sau
đó huyện rút lại quyết định này, không đồng ý trả 6 căn nhà phố
cho tôi nữa”.
Năm 1998 UBND tỉnh Trà Vinh giao một phần đất chùa Hảo Tâm
cho Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em tỉnh để xây dựng khu vui
chơi của huyện Càng Long. Theo ông Thạnh trình bày, thời gian
này chính quyền huyện Càng Long đã chỉ đạo đập phá toàn bộ dãy
nhà 16 căn, cùng các kiến trúc nối liền chùa Hảo Tâm. Năm 1999
huyện Càng Long xây dựng khu vui chơi trẻ em kinh phí 1,7 tỷ
đồng nhưng hoạt động không hiệu quả dẫn đến bỏ hoang, phải thanh
lý bán sắt vụn.
Hiện một phần công trình chùa Hảo Tâm được trưng dụng để Phòng
văn hóa huyện Càng Long làm thư viện. Tuy nhiên, vào giữa tháng
9/2016 thì bộ phận thư viện cũng đã chuyển đi. Người dân nơi đây
cho rằng vì ngôi chùa rất thiêng nên không một cơ quan nào được
giao tiếp quản dám trụ lại.
Ròng rã 40 năm qua, gia đình cụ Nguyễn Văn Hảo liên tục có đơn
xin lại chùa Hảo Tâm và nhà, đất nhưng đều bị bác đơn với lý do:
Qua quá trình quản lý và sử dụng đất trên đã xác định: năm 1976
chính quyền cách mạng quản lý toàn bộ nhà, đất của gia đình ông
Hảo, có để lại một phần nhà (5 phòng) và 5 công ruộng cho bà Dài
sinh sống. Năm 1979 bà Dài mất, thân nhân không còn ai sống ở địa
phương nên chính quyền thu hồi lại nhà là phù hợp.
Ông Nguyễn Tâm Triều (cháu nội ông Nguyễn Văn Hảo) bức xúc
trình bày: “Khi thu nạp tài sản, chính quyền thu cả chùa và cả phần
đất mộ của ông bà, gia tộc tôi. Nhưng thật không công bằng khi
người giúp việc của bà nội tôi tự ý chiếm dụng đất, những người
này còn tự ý ghi giấy viết tay bán đất của gia đình tôi. Hiện những
hộ dân vẫn đang sinh sống tại thửa đất được mua bán, chiếm dụng
bất hợp pháp đó, thậm chí có người đã được cấp sổ đỏ.
Thật bất công khi chính quyền cấp sổ đỏ cho cả những người chiếm
dụng bất hợp pháp đất đai tài sản của ông nội tôi, trong khi chúng tôi
là người thừa kế chỉ xin lại một phần tài sản trong đó có ngôi chùa,
phần mộ gia tộc để phụng sự tín ngưỡng, chăm sóc phần mộ tổ tiên
ông bà nhưng nguyện vọng chính đáng, đúng pháp luật đó lại không
được cứu xét”.
Được biết, sinh thời cụ Nguyễn Văn Hảo giàu lòng nhân ái, hay làm
từ thiện, tích cực ủng hộ kháng chiến. Noi gương cha, ông Nguyễn
Tâm Thạnh – người con duy nhất của cụ Nguyễn Văn Hảo cũng hết
lòng ủng hộ kháng chiến, được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân,
huy chương, năm 2004 ông Thạnh được Thủ tướng Chính phủ Phan
Văn Khải tặng Bằng khen.
Mặc dù trước kia cụ Nguyễn Văn Hảo rất giàu, có nhiều tài sản vậy
nhưng thực tế cuộc sống hiện tại của các con cháu cụ rất nghèo khó,
thậm chí cơ cực vì hầu hết con cháu cụ không được học hành, không
có nghề nghiệp, thu nhập ổn định.
“Rất mong chính quyền huyện Càng Long và tỉnh Trà Vinh xem xét
đến tình cảnh khó khăn này mà xem xét, giải quyết cho gia đình
chúng tôi xin lại ngôi chùa và nhà đất để nhang khói, tín ngưỡng,
có đất đai để canh tác, mưu sinh. Thiết nghĩ vụ việc của gia đình
chúng tôi cần phải giải quyết lại một cách thấu đáo, thấu lý, đạt tình,
có như vậy mới hợp lòng dân, thể hiện được tính nhân văn của chính
sách và pháp luật” – ông Nguyễn Tâm Triều nêu nguyện vọng.
Gia cảnh nghèo khó của con cháu ông Nguyễn Văn Hảo
Dù ông Nguyễn Văn Hảo đã xây dựng nên một gia sản lừng lẫy như
vậy nhưng con cháu của ông lại sống cảnh nghèo khổ trong tòa nhà
bốn mặt tiền đắc địa ngay giữa trung tâm Sài Gòn.
Con cháu ông Nguyễn Văn Hảo sống nghèo khổ ngay trong tòa nhà
trị giá hàng nhiều tỉ đồng ở trung tâm Sài Gòn.
Dù có hai vợ nhưng ông Nguyễn Văn Hảo chỉ có duy nhất người
con trai tên là Nguyễn Tâm Thạnh, sinh ngày 1.1.1929. Sau này gia
đình ông đã nhận một người cháu ruột làm con nuôi. Ông Thạnh sinh
ra ở Càng Long (Trà Vinh). Chừng 2 – 3 tuổi, ông Thạnh được cha
đón lên Sài Gòn, sau đó gửi học ở trường Tây cùng với con trai Chú
Hỏa. Lớn lên một chút, chừng 6 – 7 tuổi, ông được cha gửi đi học ở
Đà Lạt.
Nếu ông Hảo và vợ là những người cần mẫn, chịu khó, luôn làm vui
lòng khách đến vừa lòng khách đi thì con trai họ là người khá nóng
nảy, không phù hợp với bán buôn. Chỉ cần khách mua hàng có yêu
cầu hơi quá đáng, ông Thạnh có thể quát mắng và đuổi khách bất cứ
lúc nào.
Cứ rảnh khi nào là ông Thạnh tự lái xe Jeep đi rừng. Có khi mấy
tháng trời ông Thạnh sinh sống ở rừng Đồng Nai, Lâm Đồng, Ninh
Thuận, Khánh Hòa… Bạn bè của ông Thạnh cũng toàn là dân có
tiền. Ông Thạnh từng cùng với con trai Chú Hỏa đi xe hơi ra xa lộ
chạy về hướng Đồng Nai với vận tốc 200 km/giờ và hai “cậu ấm”
đều bị cảnh sát tịch thu bằng vì tội chạy quá tốc độ. Hay những hôm
sau khi nhậu sương sương, ông cùng bạn bè chạy xe xuống Hóc
Môn bắn chim “bách phát bách trúng”.
Ông Nguyễn Tâm Thạnh (86 tuổi), con trai duy nhất của ông
Nguyễn Văn Hảo
Năm 1960, ông Nguyễn Văn Hảo xây chùa ở quê Càng Long. Năm
1966, người vợ đầu mất, ông trả môn bài về hẳn ở quê, từ đó Công
ty Nguyễn Văn Hảo và các con ngưng hoạt động. Lúc này chỉ còn
garage xe phía sau nhà được ông Hảo giao lại cho người con nuôi
quản lý cùng cây xăng Caltex trước nhà. Mọi tài sản ở Sài Gòn, ông
Hảo giao cho ông Thạnh quản lý. Năm 1971, ông Hảo mất ở Sài
Gòn, sau đó ông được đem về an táng ở Càng Long trong ngôi mộ
của gia đình xây năm 1940.
Nhiều biến cố đã lấy đi của gia đình ông Thạnh mọi thứ. Những tài
sản như nhà hát, ngôi nhà bốn mặt tiền, garage, cây xăng đều bị kê
biên.
Sau năm 1975, con cháu của “đại tư sản” Nguyễn Văn Hảo luôn rơi
vào tình cảnh nghèo đói. Khác với cha mình, ông Thạnh lại có một
lèo với người vợ thứ ba tới chín người con nên lúc nào cũng thiếu
ăn. Ông Thạnh phải bán lần lữa những tài sản trong nhà để đong
gạo nuôi con. Con cái ông Thạnh phải ăn bo bo, khoai lang thay
cơm bữa và chỉ học hết lớp 5 – 6 rồi nghỉ.
Năm 1976, ông Thạnh cùng với người em vợ đi Bà Rịa-Vũng Tàu
làm rẫy trồng đậu phộng (lạc), bắp (ngô). Hiện con cái ông Thạnh
mỗi người mỗi nghề, chủ yếu lao động chân tay. Người sửa xe,
người bán gạo, làm gỗ, thợ làm kiếng, người làm ở bệnh viện…
Sau năm 1975, gia đình ông Thạnh được sử dụng hai tầng lầu dãy
phía trước của căn nhà. Bốn mặt tiền ở dưới trệt do nhà nước quản
lý và hiện có rất nhiều hộ kinh doanh thuê mướn. Từ năm 1978 đến
1982, mỗi tháng ông Thạnh được chính quyền “trả” 62 đồng tiền
thuê nhà. Nhưng đến năm 2007, gia đình ông Thạnh mới nhận được
“một cục” với tổng số tiền 24 triệu đồng.
Do bốn mặt tiền tầng trệt đều được cho thuê nên muốn lên chỗ ông
Thạnh ở phải lách qua chiếc cổng màu xanh phía đường Ký Con.
Mỗi phòng trên lầu được ông Thạnh phân lại cho mỗi người con. Đồ
đạc trong căn nhà hầu như không có gì giá trị. Ngay cả kính chống
ồn cũng được ông Thạnh tháo ra bán kiếm gạo cho con ở giai đoạn
khó khăn.
Ông Thạnh nói: “Bốn mươi năm qua, tôi quên hết mọi chuyện rồi
vì càng nhớ càng nhức đầu. Mặt trời mọc rồi cũng có lúc phải lặn
thôi”.
Một số hình ảnh về tòa nhà hơn 80 năm tuổi nằm ở trung tâm Sài
Gòn:
Ảnh ngôi nhà chụp trước năm 1975 nhìn từ phía đường Trần Hưng
Đạo. Phía trước là bảng hiệu hãng vỏ xe Michelin và cây xăng
Caltex – Ảnh: Tư liệu gia đình ông Hảo
Mặt tiền tòa nhà hiện tại
Phía sau tòa nhà
Gạch lót nền mua từ Pháp
Do không được tu bổ nên hiện tòa nhà đã xuống cấp
Vật dụng bên trong đều đã cũ kỹ
Bàn thờ tổ tiên
Sân sinh hoạt chung của tòa nhà
Một góc của tòa nhà
Từ cửa sổ tòa nhà nhìn ra là con đường trung tâm Sài Gòn. Từ đây
đi bộ ra chợ Bến Thành mất chừng 2-3 phút
Một góc của sân trời
Hành lang lên sân thượng
Nhìn trên cao, tòa nhà giống như con tàu mà mũi tàu chĩa ra hướng
đường Trần Hưng Đạo, đuôi tàu ở phía đường Lê Thị Hồng Gấm.
Ngôi nhà nhỏ trong ảnh là nơi gắn thang máy để ông Hảo lên sân
thượng ngắm cây cảnh, chim muông
Còn khá nhiều tiểu cảnh trên sân thượng
Từ trên sân thượng nhìn xuống một góc căn nhà
Lỗ thông gió của tòa nhà
Đường nối giữa hai phần tòa nhà trên sân thượng
Đương thời, ông Hảo là người yêu chim muông, cây cảnh nên khi
xây dựng tòa nhà đã được thiết kế phần sân thượng rất rộng. Ông
Hảo đã dùng một phần sân thượng đặt tên là ‘Lầu huê viên N.V.HAO
Một góc của huê viên
Nhà thờ lúc ông Hảo còn sống. Năm 1966 ông Hảo về quê Trà
Vinh ở ẩn
Hồ cá trong huê viên
Hồ bơi trên sân thượng. Hồ rộng hơn 2m, dài hơn 5m, sâu gần
2m
Bàn đá rộng 1,5 m, dài chừng 3 m trên sân thượng để ông Hảo
uống trà, ngắm trăng
Tuy ông Hảo là người nổi tiếng giàu có ở Sài Gòn trước 1975
nhưng con cháu của ông sống nghèo khổ. Đa phần con cháu hiện
sống ở phía trên tòa nhà
Một góc bếp
Từ bếp nhìn ra đường Yersin
Di chúc thừa kế của ông Hảo giao cho con trai mình là ông Nguyễn
Tâm Thạnh quản lý ngôi nhà
Ông Nguyễn Tâm Thạnh năm nay 86 tuổi đang hồi ức về tòa
nhà
Ông Thạnh được nhận huy chương kháng chiến hạng Nhất và bằng
khen của Thủ tướng

Hiện nhà nước quản lý tầng trệt của tòa nhà, các con ông Hảo được
sử dụng phần trên của ngôi nhà

No comments: