Tuesday, May 30, 2017

BIÊN CƯƠNG HÀNH (Phạm Ngọc Lư)

Thi sĩ Phạm Ngọc Lư, còn có bút hiệu khác là Phạm Triều Nghi, sinh năm 1946 (Bính Tuất) ở Vinh Xuân, Huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Ngay từ thuở ấu thơ, Phạm Ngọc Lư đã được cha và người bác truyền dạy chữ Hán.

Ông là cựu học sinh Quốc Học, sinh viên Viện Hán học và Ðại học Văn Khoa Huế. Sau khi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, ông về dạy học ở Tuy Hòa. Ông nhập ngũ khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Ðức. Sau 9 tuần ở quân trường, ông lại được biệt phái trở về ngành giáo dục. Bắt đầu viết năm học đệ tứ. Có bài trên các nguyệt san, tạp chí Nghệ Thuật, Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Khởi Hành, Ý Thức, Tuổi Ngọc…
Tác Phẩm đã xuất bản:
– ĐAN TÂM (Thư Ấn quán 2004)
– MÂY NỔI (tự in 2007)
Sau năm 1975, Phạm Ngọc Lư bỏ nghề dạy học. Từ đây, hoàn cảnh, xã hội đã đẩy Phạm Ngọc Lư phiêu bạt nhiều nơi, có những lúc cuộc sống, tâm hồn tuyệt vọng, tưởng chừng ông đã đoạn tuyệt với thi ca. Nhưng rồi chính nó lại là điểm tựa, giúp ông vượt qua những đắng cay, tủi nhục ấy. Và Ðà Nẵng mới là nơi hội tụ, điểm dừng chân cuối cùng, và qua đời vào ngày 26 tháng 5, 2017, thọ 72 tuổi.

****
Nếu tính từ 1943, thời điểm ra đời “Hành Phương Nam” của Nguyễn Bính (3 năm sau bài “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm) thì, 29 năm sau, độc giả mới được đọc “Biên Cương Hành” của Phạm Ngọc Lư, đăng tải lần đầu trên tạp chí Văn, Saigon, 1972:

“Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Ðoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Ðá mang dáng dấp hình chinh phụ
Chơ vơ chóp núi đứng bồng con


Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Ðá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ

Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?

“Ðây biên cương, ghê thay biên cương!
Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông
Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
Mùa mưa về báo hiệu tai ương
Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khi đằng đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hóa thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết tróc
Ðỡ thèm môi mắt gái buôn hương

“Ðây biên cương, ghê thay biên cương!
Tử khí bốc lên dày như sương
Ðá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi ta đến chia buồn
Buồn quá giả làm con vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị thương
Chiều hôm bắc tay làm loa gọi
Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận?
Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
Em đâu, quê nhà chong mắt đợi
Hồn theo mây trắng ra biên cương
Thôi em, yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta nhắm mắt tay buông
Thôi em, chớ liều thân cô phụ
Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
Há một mình ta xuôi biên tái
“Nhất khứ bất phục phản” là thường!

Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.”
Ðó là thời điểm bi kịch chiến tranh ở miền Nam đã như con quái vật khổng lồ, biến hiện nghìn thân, gieo tang thương, chết chóc cùng khắp miền Nam.
Tuy nhiên, khởi đầu, “Biên Cương Hành” của họ Phạm không lập tức là cơn lốc lớn; dù cho mỗi chữ, mỗi câu, mỗi hình ảnh trong bài thơ, tự thân như:
“Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn”
Hay:
“Tử khí bốc lên dày như sương
Ðá chảy mồ hôi rừng ứa máu”
Hoặc:
“Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.”
Mà, nó chỉ như “trận bão trong tách trà” – – Dù với bằng hữu, những người bạn văn cùng thời với Phạm, “Biên Cương Hành” của ông, đã như một trận động đất lớn: Bất ngờ. Sửng sốt. Thốn buốt tâm can thế hệ.
Ðiển hình, nhà văn Nguyễn Lệ Uyên, trong bài “Ðọc thơ Phạm Ngọc Lư / Thơ như một định mệnh,” ghi nhận:
“…Với tôi, Lư là người bạn thân thiết từ cuối thập niên 60 và chữ nghĩa của Lư là ‘người tình’ đích thực của tôi kể từ khi tôi đọc một loạt truyện ngắn của anh đăng trên Văn, Bách Khoa… Những nhân vật trong truyện đã mang không khí chiến tranh đi ngao du cùng trời cuối đất, khi thì dưới một mái trường quê, khi thì một làng ven biển, lúc thì một thị trấn nhỏ miền núi, bị cô lập như ‘đất trích’… Trong suốt thời gian nầy tôi chưa hề thấy anh làm thơ như những người cầm bút khác cùng thời.
“Mãi tới cuối năm 1972, tôi từ Sài Gòn về từ giã cha mẹ và các em để ‘xếp bút nghiên…’, buổi tối ngồi uống chén rượu lạt cùng với các bạn văn trước lúc chia tay, giữa chếnh choáng men say thế sự, giọng Lư hốt nhiên vang lên, nấc nghẹn:
“Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi rừng thăm thẳm nhiễu nhương

“Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Ðá Vọng Phu mọc khắp biên cương

“Ðây biên cương ghê thay biên cương
Tử khí bốc lên dày như sương…
(Biên Cương Hành)
“Sáu mươi sáu câu thơ trong bài hành nghe sởn gai ốc, rờn rợn da gà, khắp người tựa hồ có hàng ngàn mũi kim nhức buốt thịt xương. Tôi ngạc nhiên đến thích thú. Và nó đã ám ảnh tôi 30 năm nay, có lẽ đến khi nhắm mắt xuôi tay, nỗi ám ảnh ấy chắc sẽ còn ‘dày như sương’…” (Nguồn Wikipedia/Bách Khoa Toàn Thư-Mở)
Cá nhân, tôi không chút ngạc nhiên, bất ngờ khi biết “Biên Cương Hành” của họ Phạm, sẽ ám ảnh Nguyễn Lệ Uyên cho tới ngày ông “nhắm mắt xuôi tay”!
Như hội họa, lịch sử văn học từng có trường hợp: Những sáng tác đặc biệt, ra đời cùng với ngoại lệ riêng của chính chúng. Như ngọn núi, một sớm, thình lình hiện ra giữa bình nguyên. Như dòng sông, một sớm, thình lình trở thành thác, lũ giữa không chờ, đợi…
Tôi gọi đó là “đoạn trường” bất thường của một bài thơ được sinh nở với định mệnh của một thứ cột tháp thảm họa khốc liệt. Mỗi con chữ không chỉ dính gân cốt, thịt, xương trăm ngàn đọa kiếp mà, còn cõng trên lưng cả những hồn ma oan khuất một thời địa ngục đất nước, quê hương nữa! Cho tới khi bài thơ, hội đủ những yếu tố để “đá vỡ, ngọc lộ,” ngời ngợi khí chất tư riêng, khắc họa những hoắm, sâu thương tích phận người…
“Biên Cương Hành” của Phạm Ngọc Lư, theo tôi, là một trong những bài thơ của 20 năm văn học miền Nam, nằm trong căn phần “đoạn trường” này.
Tôi trộm nghĩ, chúng ta có khá nhiều lý cớ, giải mã cho cơn bão “Biên Cương Hành” của họ Phạm, khi bài thơ cuối cùng, cũng đã bước khỏi tách trà; trở thành xương, thịt một trận địa chấn tang thương ở mọi chiều kích đất nước, thời thế, xã hội, chính trị, cá nhân thân, tâm…
Một trong những lý giải đầu tiên, theo tôi, là sau gần nửa thế kỷ hiện diện, khi mọi mặt nạ quỷ quyệt, hăm dọa đã được gỡ bỏ, để người đọc, dù đứng ở góc độ nào, cảm nhận từ lăng kính tư duy nào, cũng đã tuần tự nhận ra: Những mạch ngầm máu, xương khôn tan; những oan khuất, hồn ma một thời của cả một dân tộc trong “Biên Cương Hành” của họ Phạm, ngày nào chưa được khai giải; đàn-tràng-chưa-lập trong thẳm cùng thân, tâm sinh linh nhiều thế hệ, may mắn sống sót – – Thì tính sử thi bất hạnh của “Biên Cương Hành” vẫn còn là những đọi máu trầm luân nhiều năm, tháng nữa…

No comments: