Kiếp Tù
Duy Xuyên Tacoma
Tôi sinh ra là một ngôi sao xấu trong
những ngôi sao xấu nhất của bầu trời đất Việt.
Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống
trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên
sỏi đá.
Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường.
Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.
Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải
lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về.
Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ.
Công việc chỉ đơn thuần như thế. Còn việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó
là việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.
Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa
ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.
Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một
nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối
khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.
Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót
lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay
đổi bữa cơm với một con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá
thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng
trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa
đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là
Nghĩa Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh
diện được xúng xính trong quân phục ‘lính áo đen’.
Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng
chăn dê rồi đó!
Tôi được dạy cho biết cách sử dụng
súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là ‘người tình’ đi
theo tôi trong suốt quãng đời lính tráng này.
Tôi được phục vụ ngay tại địa phương
nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là
‘tiểu đội thám báo’.
Nói ‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra,
nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội
thường xuyên di chuyển từ địa điểm này đến địa hình khác với mục đích tránh sự
dòm ngó, quan sát theo dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.
Tuy tránh giao tranh với địch song anh
tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc
của Việt Cộng.
Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di
chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự
quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi
phát hiện địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ
báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.
Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh
của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi
rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào
mà đi lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường
nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng
đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng bắn một
băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn khai hỏa đầu tiên của anh
ta.
Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi
địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly
gia đình theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng
và làm liên lạc viên cho đám du kích.
Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác
anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận xác về chôn cất.
Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ
ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của chúng tôi.
Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm
gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực
Quân hay Địa Phương Quân.Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi
lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã.
Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái
xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của
anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.
Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần
đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:
– Đặt xác nó tại đây đi!
Anh bạn vừa thả băng ca thì trời bất
chợt đổ cơn mưa rào.
Tôi đem lòng thương hại kẻ xấu số nên
cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa
ướt.
Đó là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng
phải cư xử với người chết như thế.
Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một
người đàn bà đập thình thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:
– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi
thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi
kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”
Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà
ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng,
bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy.
Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975,
đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo
tại các trại tập trung lao động khổ sai.
Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và
Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày thì được cho về sinh hoạt với
gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản
kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam
Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…
Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm
các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đã không tìm thấy bất cứ ai, kể
cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng,
tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo
đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!
Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu
úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân Viên.
Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng
quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại
trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?
Có người thì nói ôn tồn, thương hại.
Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:
– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp
bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng
ôn tồn, nhã nhặn trả lời:
– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu
úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng
hoa lắm rồi.
Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn
chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy
cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng … gì đó trong chi khu, nên lúc
nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.
Lao động trong trại tù chừng gần hai
năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với
trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng
tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và
đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa
tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì các ông này ít ra cũng là các cấp
chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi.
Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh
như chớp. Càng được sống gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn.
Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như em út trong trại tù.
Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.
Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng được
về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở chung với một đại tá
và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân
dân.
Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp
nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy
nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.
À, mà tôi quên kể cho quý vị nghe về
gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…
Năm 18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với
con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả
hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất
khiến thế nào khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại
cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền
lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào
tôi cũng chẳng hay biết gì!
Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học
những câu văn chương lãng mạn để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.
Tôi cũng không nhớ rõ, cái đêm động
phòng hoa chúc ấy … ra làm sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm Nại như thế
nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay,
bây giờ tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất
khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người
mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ
Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ được lãnh lương 1.200 đồng mà phải
nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa
con thật vất vả.
Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm
nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ
nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm
nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm
nuôi, tôi vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy ra lôi thôi
cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng bị lật và
có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân nhân nhận nên địa
phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người quen
biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa
nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng
bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…
Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ,
nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một
khúc quanh.
Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa
6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng
tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt cho tôi để nuôi
năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng trong
khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi tự túc nuôi
con sau này.
Cảnh gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt
hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười.
Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng
xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn còn lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày
ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng mì. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau
tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai
tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ
cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở một xó
lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy
làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào
ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn
thêm để tránh cái đói đang hành hạ chúng.
Nào ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc
thì thấy vắng mặt con Thanh -đứa con gái đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi
hái trộm bắp.
Tôi nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực.
Mưa gió đang gào thét…
Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp
trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.
Sau một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp,
tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc,
át hẳn tiếng kêu của tôi: “Thanh! Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị
mưa gào, gió cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ
chắc giờ này con Thanh cũng đã về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc,
nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.
Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng
chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác không biết chuyện gì đang xảy ra.
Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một
mình ngồi chờ con Thanh về.
Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng
bắn inh tai…Không biết chuyện gì đã xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la
hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa nhà.
– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con
đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại
nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.
Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời.
Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết
thê thảm bên vũng máu. Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng
mười trái bắp và hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang
nhai mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được
nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.
Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng
buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của
Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở
cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.
Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất
hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong
đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng
ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội
đã hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em
lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lãnh phụ cấp gia đình, nên vợ con
lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. Còn vợ con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất,
đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.
Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi
cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy
quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của
nhân loại’ không biết phân biệt hành xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn
con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!
Bảy ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’,
vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia
đình và cái chết thê thảm của con Thanh …
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai
đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn,
não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to.
Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng
hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình
dáng của con Thanh. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang
buột một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất
bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con
Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước.
Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất
cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con
Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi
:”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa đẩy tấm liếp; con Nhàn cũng chạy
theo.
Nhưng khi ra đến mả thì hình dáng con
Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn
còn bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết
đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết
nghĩ sao tôi vừa khóc vừa vái trước mộ nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp
cho con ăn.”
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như
thể tôi đã bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa
vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn
thờ cho con Thanh.
Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc
hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo
con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh
như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba
ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không
ba?”
Nước mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng
vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người
chị.
Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm
nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại năm đứa con cho tôi. Kể từ ngày ấy
đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong
mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ
mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ mỏng
làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời
phồn vinh giả tạo còn sót lại.
Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa.
Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của một chế độ mà người bóc lột người…
Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng: “Nại bị chết kẹt dưới những đống
hàng chồng chất, máu me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một
vũng máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống..”
Duy Xuyên,
Tacoma
No comments:
Post a Comment