THÁI VĂN KIỂM
(1922-2015)
Ông Thái Văn Kiểm, sinh năm 1922 ở Huế,
bên bờ hồ Tịnh Tâm (1), một địa danh đặc biệt của cố đô, chính quán làng Bao
La, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Thời tuổi trẻ, học trường Phú Xuân, trường Quốc
Học, rồi được bổ nhiệm Tham Tá Tòa Khâm. Năm 1952, giám đốc Nha Thông Tin Trung
Việt, trực thuộc Hội Đồng Chấp Chính Trung Phần. Năm 1953, làm Tỉnh Trưởng
Khánh Hòa, rồi Tỉnh Trưởng Ninh Thuận. Sau năm 1954, chuyển về Bộ Giáo Dục, phó
giám đốc Nha Văn Hóa, chủ bút Văn Hóa Nguyệt San, chủ biên Văn Hóa
Tùng Thư. Năm 1963, giám đốc Đài Phát Thanh Sài Gòn; vài năm sau chuyển qua
ngành ngoại giao, tùy viên văn hóa các sứ quán Việt Nam Cộng Hòa ở Tunis
(Tunisie), Dakar (Sénégal), Kinshara (Congo). Sau biến cố 1975, trở lại Pháp và
định cư ở Paris, làm việc ở thư viện Trường Cao Đẳng Kiến Trúc (L’Ecole
Nationale Supérieure d’Architecture de Paris) đến năm 1987 mới về hưu. Một đời
người nhiều biến chuyển, đi nhiều, sống nhiều, từ trong nước ra đến hải ngoại,
tất cả đều thuận lợi cho một người hiếu học, ham thích làm việc, suốt đời đọc
và viết, quan sát và ghi chép, và đã để lại nhiều dấu vết quí giá.
* Học-vấn: - Tiến-sĩ Đông-phương-học,
Paris, 1981- Tiến-sĩ Quốc-gia Văn-chương. * Hoạt-động tại quốc-nội: - Đốc-sự
Hành-chánh- Sáng-lập đài phát-thanh Huế - Giám-đốc Thông-tin Trung Việt (1952) -
Tỉnh-trưởng Khánh-hoà và Ninh-thuận (l953-1954)- Phó Giám-đốc Văn-hóa Bộ
Giáo-dục (1955-1962)- Giám đốc đài phát-thanh Sài-gòn (1963)- Chủ
bút Văn hóa nguyệt san, chủ-biên Văn-hóa tùng thư (1955-1962) *
Cộng-tác các báo: Văn-hóa, Luận-đàm, Đại-học Huế, Bách-khoa, Sáng dội miền Nam,
Đời mới, Liên-lạc Á-châu, France-Asie, Sud-Est Asie, Bulletin Société Etudes
Indochinoises, Asian Culture, v.v. * Tác-giả thiên phóng-sự: Thám-hiểm động
Phong-nha, giải nhất, Hà-nội 1942. Tác-giả các quyển: Cố-đô Huế (1960), Đất
Việt Trời Nam (1961), Việt-Nam nhân-vật chí vựng biên (cùng Hồ Đắc
Đàm), Việt-Nam, d'Hier et d'Aujourd'hui (1957), Vietnam: Past
and Present (l958), Réalités Vietnamiennes (1969).* Hai tác phẩm
của ông thường được nhắc đến nhiều là Cố Đô Huế (Văn Hóa Tùng Thư,
1960) và Đất Việt Trời Nam (Nguồn Sống, Sài Gòn, 1960). Cũng nên kể đến
mấy quyển khác nữa là Việt Nam Nhân Vật Chí Vựng Biên, soạn chung với Hồ Đắc
Hàm (Văn Hóa Tùng Thư, 1962), Chỉ Nam Về Viện Bảo Tàng Quốc Gia Việt Nam,
soạn chung với Trương Bá Phát (Bộ Văn Hóa Giáo dục và Thanh Niên xb, 1974). Cuối
thập niên 90 cho đến năm 2005, tập hợp các bài viết sau thời điểm 1975 và xuất
bản: -Việt Nam Tinh Hoa, Mõ Làng, Hoa Kỳ, 1997. - Việt Nam Gấm Hoa, Làng
Văn, Canada, 1997. - Việt Nam Anh Hoa, Làng Văn, 2000. - Việt Nam
Thăng Hoa, Làng Văn, 2005
Ông ký nhiều bút danh có lẽ là tùy cảm hứng
của từng lúc, những Việt Điểu, Tân Việt Điểu, Hương Giang Tư Mã, Bao La Cư Sĩ,
những bút hiệu chứa đựng tâm tình và nỗi lòng với đất nước, với quê hương, xứ sở (tài
liệu Internet)
* Hoạt-động tại hải-ngoại: - Cộng-tác với
các báo: Tụ-do, Việt Nam Hải-Ngoại, Làng Văn, Độc Lập, Diễn- Đàn
Thanh-Niên, Hành-Trình, Cao Niên, Quê Mẹ, Ái-Hữu, Âu-Du, v.v. - Tác-giả tập Au
Pays du Nénuphar, giải nhất Cosmos (1977, Montréal, Canada). - Huy-chương Hàn
lâm Pháp-quốc (1982). - Đồng chủ-tịch Trung-tâm Quốc-tế Việt-học (Pháp, Bỉ).
Cộng tác với nhiều diễn đàn văn hóa, bài
viết của ông xuất hiện trên Văn Hóa Nguyệt San, Luận Đàm của Tổng Hội
Giáo Chức, Đại Học (Huế), Tập San Sử Địa, nguyệt san Lành Mạnh ở
Huế, Bách Khoa, Sáng Dội Miền Nam, Đời Mới, France-Asie, Sud-Est
Asie, Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises.
TƯỞNG NHỚ
BÁC HƯƠNG GIANG
THÁI VĂN KIỂM
Cuối
mùa xuân năm 1991 tác phẩm thơ đầu tay “Nỗi Lòng Người Em Nhỏ” của tác giả Dư
Thị Diễm Buồn ra mắt tại thành phố Gió Chicago được quý độc và đồng điệu đón nhận
nồng hậu và nhiệt tình.
Sự tiếp nhận đó lại khiến cho Dư Thị Diễm
Buồn dè dặt suy nghĩ: “...Không biết có phải là những bài viết của mình có hồn,
hay là vì thương mến và tội nghiệp cho một tác giả mới, tác phẩm mới nên bạn
bè, người quen biết có nhã ý tiếp nhận để khuyến khích, để động viên...?”
Vì lý do đó, khi phát hành đến tập thơ
thứ hai, thứ ba... và về sau. Tác giả cố tìm những cây viết có tầm vóc đã thành
danh trước năm 1975 ở quê hương và sau nầy ở hải ngoại viết lời tựa, lời bạt, cảm
nghĩ... cho những tác phẩm của mình trước khi chào đời. Để có thể đo được tầm
viết của mình như thế nào, hầu cố gắng làm tốt them, trong những tác phẩm ở
tương lai.
Thuở đó đồng điệu và đồng môn với Dư Thị
Diễm Buồn (tôi) là nhà văn Nguyễn Văn Ba (GS. Thái Minh Kiệt) lúc còn sinh thời.
Khi nghe kể tự sự ý muốn của tôi, anh Ba
mau miệng bảo:
-
Nếu muốn như vậy thì tập thơ nầy chị nhờ Học Giả Hương Giang Thái Văn Kiểm
viết tựa cho... Ông Thái Văn Kiểm ở Pháp, tôi không có địa chỉ và điện thoại...
Đâu chị thử hỏi nhà văn Hồ Trường An xem sao chắc là anh ấy có...
Trước
khi cho số điện thoại, nhà văn Hồ Trường An e dè lên tiếng:
- Tôi có số điện thoại của cụ Thái Văn Kiểm
đây, chị tự gọi cụ xin viết tựa cho sách của chị nghe... Trong cộng đồng người
Việt không riêng vì ở Pháp, mà mọi nơi nghe tên cụ ai cũng rất ngưỡng mộ và
kính nể về tài năng của cụ, kể cả người bản xứ cũng vậy! Theo tôi biết thì cụ
Thái Văn Kiểm ít khi viết tựa hay phê bình sách cho ai lắm chị à... Chị cũng biết,
tại Paris có bao nhiêu là văn nhân thi sĩ, nhưng cụ đã nhận viết cho được mấy
người đâu...
Có
số điện thoại rồi nhưng tôi còn ngại ngùng chưa dám gọi cho bác Thái Văn Kiểm,
mà gọi lại cho đồng điệu Nguyễn Văn Ba.
Tôi nhăn nhó, bảo:
-
... Nầy Mr Ba, nghe nói bác Thái Văn Kiểm ít khi viết tựa cho ai lắm! Thấy
tui “khờ khạo” bộ anh muốn hại ê mặt khi bác từ chối sao, mà xúi dại con nhỏ nầy
nhờ bác viết... Nếu bác không viết để anh cười tôi đó hả...?
Bên kia đầu dây điện thoại một sáng cuối
tuần ấm áp. Ở tận miền gần như quanh năm giá rét lạnh lùng Canada, nhà văn Nguyễn
Văn Ba cất giọng phơi phới cười ha hả, cười thống khoái... Đầu dây bên nầy nghe
mà thấy ghét quá chừng, tôi lớn tiếng:
-
Bộ trúng tim đen, tim chì, tim vàng... rồi sao mà anh cười hô hố, cười hết-ga-ăng-ty
vậy trời?
Còn hụt hẫng trong tiếng cười, Nguyễn Văn Ba bảo:
-
Đâu có, ai mà hại chị hồi nào! Có số điện thoại rồi thì chị gọi hỏi bác
xem, nếu bác không nhận viết thì thôi, chớ bác có biết chị là con Mít, con
Xoài, con Ổi... đâu mà mắc cỡ! Bác Thái Văn Kiểm ít viết cho ai chớ đâu phải
không viết, mạnh dạn lên gọi cho bác đi bà chị! Mèn ơi, tệ thì thôi, chưa ra trận
mà đã chịu thua rồi...
Bị
Nguyễn Văn Ba khích tướng tôi ứa gan lắm! Liền quay điện thoại gọi bác Thái Văn
Kiểm sau khi chào tạm biệt với người bạn đồng điệu, đồng môn hay có lắm chuyện
nhiều trò để trêu ghẹo tôi!
Tiếng
chuông điện thoại reo vang, một giọng Huế nhỏ nhẹ:
- Hello, hello... Xin lỗi vị nào đó...?
Dư
Thị Diễm Buồn tôi hơi khựng, thở ra rồi lấy giọng nói một lèo muốn hụt hơi:
-
Dạ kính chào bác, tên cháu là DTDB ở bên Mỹ. Trước là gọi thăm sức khỏe
bác, sau là xin bác viết lời tựa cho tập thơ của cháu sắp in...
Vẫn
giọng từ tốn và chậm rãi, bác hỏi lại:
- Chị bảo chị tên chi?
- Dạ thưa bác cháu tên Dư Thị Diễm Buồn.
Tôi
cố tình nói chậm và kéo dài họ tên từng chữ một, để ở bên kia bờ Đại Tây Dương
ngàn trùng xa xôi, cách trở bác có thể nghe rõ hơn. Và tôi nghe bên kia đầu dây
điện thoại bác nhỏ giọng lập lại tên tôi vài lần... Rồi bác lên tiếng, bảo:
- Tôi nhớ có đọc bài chị viết rải rác đâu đó
trên báo và đặc san... Thôi thì chị cứ gởi bản thảo qua đi để tôi xem... Nếu viết
được thì tôi sẽ viết cho chị, còn không thì thôi chị đừng có buồn nghe...
Tôi
mừng quýnh nói lời cảm ơn và chào bác rồi gác điện thoại. Miệng còn cười tươi
như hoa hồng héo, và tôi lẩm bẩm một mình: “Cháu đã có cái tên Buồn rồi, thì
còn buồn nỗi gì nữa bác ơi...”
Bản
thảo gởi đi hơn ba tuần thì một ngày đẹp nắng, muôn hoa khoe hương khoe sắc thắm
tươi. Trên nền trời màu bích ngọc in từng vầng mây trắng ngồn ngộn như bông gòn
thanh thản bay bay... Tôi vui mừng run tay cẩn thận mở bao thư dầy. Trang trừng
trang giấy trắng tinh viết tay với nét chữ còn thắm tươi màu mực của bác Thái
Văn Kiểm từ Pháp gởi qua.
HG.HG. THÁI VĂN KIỂM
Với “NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI”
Của Dư Thị Diễm Buồn
Kể từ năm 1975, sau những cuộc di tản lớn
lao phát xuất từ Quốc Nội ra tới Hải Ngoại, chúng ta nhận thấy Cộng Đồng Việt
Nam, sau khi đã ổn định khắp năm châu, đã khởi phát một phong trào Văn Hóa và
Thông Tin rộng lớn bao gồm các ngành thiết yếu về mặt tinh thần là Báo Chí, Thơ
Văn và Ca Nhạc...
Đám người đông đảo ấy xa quê hương vì thời
cuộc, đã tạo dựng một cuộc sống mới nơi xứ lạ quê người, bèn đem tâm tình phơi
trải trên giấy trắng, nơi ngón đàn muôn điệu và trên sân khấu muôn mặt của cuộc
đời, để chia sẻ buồn vui với thiên hạ.
Trong những cách phô diễn đa diện ấy,
Thi Ca đã chiếm một phần khả kính vì lẽ những kẻ đã ra đi trong cơn sóng gió, đều
mang nặng một khối tâm tình chứa chất căm hờn, đắng cay và chua chát. Một số đã
trở thành thi sĩ và ca sĩ, nhờ những khiếu năng đặc biệt do Tổ Tiên truyền lại
qua những ca dao, hò vè thấm nhuần nhạc điệu, âm thanh, qua một thứ ngôn ngữ đa
thanh, chứa đựng nhiều tình cảm nhất trong Cộng Đồng Nhân Loại.
Qua những nhận xét kể trên, chúng ta có
thể nói rằng: Mỗi một người dân Việt từ lúc bé thơ, đã hấp thụ thầm kín và sâu
xa những âm điệu hát hò của bà Mẹ hiền ru con trong đêm vắng, của cô lái đò hò
mái nhì, mái đẩy trên dòng sông trong, hoặc là của những mục đồng nghêu ngao
trên lưng trâu nơi đồng nội...
Nói tóm lại, mỗi người dân Việt, trong
suốt đời mình, không ít thì nhiều, đều có thể là thi sĩ và ca sĩ. Và quanh năm
suốt tháng từ ngàn xưa, cả một dân tộc đua nhau cày cấy, hát hò để quên những
nhọc nhằn, phiền muộn từ nắng sớm tới chiều hôm.
Trong khung cảnh thiên nhiên ấy và những
truyền thống tốt đẹp của thôn quê và thị thành, đã mang theo trong tâm hồn và
huyết thống, nhập vào trào lưu mới nơi Hải Ngoại, một danh hiệu mới đã xuất hiện
trên văn đàn, thi giới là Dư Thị Diễm Buồn, tác giả nhiều bài thơ mang nặng màu
sắc dân tộc, hiền hòa và chất phác, mộc mạc và chân thành, tâm hồn nhạy cảm với
quả tim nhịp nhàng, với tánh tình bộc trực mà lãng mạn, can đảm và hào hoa.
Xét kỹ nơi danh hiệu mới xuất hiện này.
Chúng ta có thể tìm gốc gác Minh Hương của họ Dư, phát xuất từ đại tộc Bách Việt
từ miền Nam sông Dương Tử tới Động Đình Hồ với Bộc Việt và Lão Việt, tiến về
Nam cho tới Mân Việt (Phúc Kiến) và Nam Việt (Quảng Tây và Quảng Đông) giáp với
miền Bắc Đông Dương, vốn là thổ cư nguyên thủy của các sắc dân Âu, Lạc, Mường,
Kha... họp lại thành Âu Lạc, Mường Lạc, Lạc Việt, và sau cùng là Việt Nam.
Trong những họ gốc Minh Hương, Gia Thạnh,
chúng ta có thể kể thêm các họ lớn trong Nam như họ Mạc ở Hà Tiên như Mạc Cửu,
từ Quảng Đông (Nam Việt) sang đây, đã lấy vợ Việt tên Bùi Thị Lẫm, sinh ra con
trai là Mạc Thiên Tứ, Hoa Kiều lai số 1 trong lịch sử ta (theo Gia Định Thông
Chí của Trịnh Hoài Đức, cũng là Minh Hương) cũng như con cháu các họ Lâm (Đông
Hồ Lâm Tấn Phác), Trần (Thượng Xuyên
khai trấn Biên Hòa), Dương (Ngạn Địch khai trấn Mỹ Tho) v.v...
Nói về Minh Hương Gia Thạnh có thể bao gồm
Tổ Tiên nhà thơ nữ Dư Thị Diễm Buồn, chúng ta nên nhắc lại đây 2 câu đối của Trịnh
Hoài Đức (1765-1825), công thần khai quốc đời Nguyễn, tự tay ông đã viết treo
trên hai cột cái, nơi đình Gia Thạnh, quận 5, Sàigòn:
1- Minh đồng nhật nguyệt điệu Nam thiên,
phụng chữ lân chầu Gia cẩm tú,
2- Hương mẫn càn khôn linh Việt địa
long bàn hổ cứ Thạnh văn chương.
Chúng ta nên lưu ý tìm thấy 3 cặp chữ đối
nhau san sát và đầy đủ ý nghĩa, xinh đẹp vô cùng: Minh Hương - Nam Việt - Gia Thạnh vốn là tên làng tân lập
của những người di cư gốc Bách Việt.
Cái điều là chúng ta nên lưu ý nữa là
danh hiệu của nhà thơ có hai chữ Diễm Buồn, vừa diễm là xinh đẹp, vừa buồn là
không vui. Do đó mà chúng ta nên tìm hiểu từ đâu và lý do gì mà nhà thơ họ Dư
(là thừa ra, thong thả, an nhàn) đã chọn. Chữ Diễm (là xinh đẹp, như diễm lệ,
hai chữ đều có nghĩa là xinh đẹp). Còn Diễm Buồn có thể giải thích như là có vẻ
đẹp dịu dàng mà thoáng đôi nét buồn nhớ mông lung. Đó chỉ là sự ước đoán từ
phương xa, vì lẽ chúng tôi chưa gặp người trong cuộc.
Những hình dáng yêu kiều của các kiều nữ
Tây Đô, thời vàng son nơi Quốc Nội, chúng ta đã từng nhìn thấy thướt tha trên bến
Ninh Kiều (Cần Thơ), mà phương danh đã được dân Nam ghi lại trong đôi câu ngạn
ngữ ca ngợi những đức tính trung kiên của chàng trai, đồng thời với tài năng, cần
mẫn của cô gái Thủ Đức: “Gái Thủ Đức năm canh thức đủ/ Trai cơ thần ở lại Cần
Thơ”
Ngoài ra, thi hiệu của nhà thơ cũng gợi cho tôi nhớ một nhân vật phái nữ
trong “Hồn Bướm Mơ Tiên”của Khái Hưng tên Lan có "khuôn mặt trái xoan, hai
má ửng hồng, đôi mắt phượng mơ màng như liễu rũ trên mặt nước hồ thu" khiến
ta nhớ tới đoạn văn sau đây của Kinh Thánh ngày xưa: "Comme la lumière,
sur le chan delier, telle est la beauté du visage dans l' âge épanoui".
(L' Ecclésiastique, XXVI, 17).
Những nét buồn thương và lãng mạn ấy được nhà thơ phô diễn với "tâm
sự chát chua ai mua mà bán" của một bài ca cổ điển lưu truyền nơi xứ Huế mộng
mơ mà nhà thơ rất quen thuộc, hòa lẫn nhiều bài thơ đánh dấu những chặng đường
xuôi ngược Bắc Nam với “Những Ngày Xưa Thân Ái”
......................................................
Nước trà huế tỏa hương thơm
phưng phức
Bữa ăn xong, nàng dọn quảy
gánh về
Chàng say tình cất giọng hát
đê mê
Câu Vọng Cổ ngọt ý tình tiết
điệu
Buổi trưa cũ, sáng trưng thời
niên thiếu
Và bây giờ đã ngăn cách đôi
nơi
Lệ xót xa thấm mặn nửa cuộc
đời
Một chút thôi! Cả khung trời
kỷ niệm
(Buổi Trưa Quê)
Những nỗi buồn đã xuất hiện từ thuở hoa
niên đôi tám, khi nàng gặp chàng thủy thủ nơi bến vắng xa xưa:
...................
Anh là người thủy thủ
Quen nước trời bao la
Mỗi khi tàu về ụ
Nhớ nhung như xa nhà
Tôi biết buồn từ đó
Bởi trêu ghẹo anh đùa
"...Hỡi nầy cô em nhỏ
Đã có người yêu chưa? "
Vô tình hay cố ý
Hờn dỗi tuổi đôi mươi
Tại sao anh không nghĩ
Để tôi sầu lẻ loi?
Một hôm anh thỏ thẻ
"...Có cô gái nhà bên
Bé ơi, giúp hộ nhé
Cho anh được làm
quen..."
Tâm hồn tôi băng giá
Anh thật quên rồi sao?
Chúng mình đám cưới giả
Tóc cài trắng hoa cau
Ngày anh đi cưới vợ
Tôi theo làm phù dâu
Mỗi mùa hoa cau nở
Lòng vương vương nỗi sầu...
(Hoa Cau Trắng)
Đầu dây mối nhợ của nỗi buồn da diết
ấy là anh chàng thủy thủ đùa giỡn với cô em trinh trắng như tấm lụa Hà Đông,
như hoa cau Đồng Tháp, vương vấn mối tình đầu và sầu tương tư ấy...Và đau điếng
nhất là nhà thơ phải dằn lòng đóng vai phù dâu, thầm khóc thì hổ ngươi, mà cười
tươi thì ra nước mắt!
Âu cũng là thân phận của người đàn
bà trên đường dài mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu biết đâu lựa, như lời
ca Vọng Cổ dưới trăng xưa soi rọi bến Ninh Kiều và trên phà Mỹ Thuận chông
chênh với trai thanh gái lịch:
Xe dừng lại chờ qua đò Mỹ
Thuận
Cam, mít, xoài, ổi xá lỵ
chín cây
Thịt nướng, tôm càng, cá chẻm,
chim quay
Vùng châu thổ, món ăn ngon
thơm phức!
(Đường Về Hậu Giang)
Tuy thế, nàng thơ vẫn nhớ Mẹ hiền từ Bắc
vào Nam tìm trẻ trong:
...................................................
Thảm cảnh đau thương núi
sông nhuộm đỏ
Con bôn ba chạy loạn lạc xứ
người
Mẹ tuổi đời chồng chất đã
sáu mươi
Lặn lội xa xôi vào Nam tìm
trẻ
Con lìa Mẹ khi hãy còn tấm
bé
Mẹ xa con héo hắt nửa cuộc đời
Và cứ mỗi lần thời cuộc đổi
thay
Mỗi lần đổi, mỗi nghìn trùng
xa cách
Hôm nay đây, hơn nửa vòng
trái đất
Nhớ chùa Tam Thanh, nhớ nước
sông Thương
Nhớ đào Mẫu Sơn nửa trắng nửa
hường
Gỗ hoàng đàn, Thất Khê mùa mận
chín
(Xa Vẫn Còn Xa)
Rồi nhà thơ gọi Mẹ trong giấc mơ
chập chờn xa quê nhớ cội:
........................
Mẹ
ơi, thu về sương mờ đỉnh núi
Nỗi nhớ thương dằng dặc mãi nào nguôi
(Xa Vẫn Còn
Xa)
Những bài thơ của Diễm Buồn khiến
tôi nhớ đến đôi lời thở than chua xót của Nữ Sĩ Tương Phố, chị ruột của Nữ Sĩ
Song Khê và cũng là tác giả "Giọt Lệ Thu", vốn là bậc trưởng thượng của
nhà thơ Diễm Buồn đồng hương đồng xứ. Tôi lại nhớ bà chị dâu trong họ Thái, đã
từng thốt ra những câu thơ thống thiết:
Nước loạn canh tàn khóc bể dâu!
(Tương Phố Đỗ Thị Đàm)
Mẹ già vào Nam không bao lâu thì
lìa trần sau cơn bạo bệnh, để lại chồng con bơ vơ như sẩy đàn tan nghé. Người
thủy thủ của ân tình vẫn trôi nổi đó đây:
....................................................
Thời gian đi nước trời như hẹn
ước
Trên tầng không, hiện rõ
cánh chim bay
Tầu xuôi ngược trăm hải
trình tiến bước
Khi qua rồi vết tích cũng mờ
phai...
Người thủy thủ sao trầm ngâm
đứng đó
Đã tan rồi, trời biển vẫn
xanh lơ
Có còn chăng tiếng hát buồn
trong gió
Ta hữu tình, trời nước vẫn
nên thơ...
(Hình Bóng)
Rồi
thình lình, trời long đất lở với sự sụp đổ của miền Nam, những chiến sĩ anh
dũng nhưng thiếu lãnh đạo đã bị tù đày nhọc nhằn trong những trại cải tạo xa vời,
âm u rừng núi, khiến cho hàng vạn gia đình ly tan, gió dập sóng vùi oan khiên
khắp nước!
Trong thảm cảnh ấy, Diễm Buồn đã
vất vả trong nhiều năm vì cha, anh bị đày đi cải tạo. Cha bị hành hạ mỏi mòn chết
trong tù, khiến Diễm Buồn lánh bạo, chạy sang xứ người lập lại cuộc đời với hai
bàn tay trắng.
Tình cờ Diễm Buồn đã gặp lại người xưa:
.........................................................
Nơi xứ người, mình gặp lại
nơi đây
Quốc Khánh xưa nay đổi thành
Quốc Hận
Hai phương trời, hai lối sống
đổi thay
Vẫn nụ cười trong mắt anh rạng
rỡ
Tâm hồn em chao động, lệ thầm
rơi
Tiếc thương chi, có duyên mà
không nợ
Em viết bài thơ, từ tạ cùng
người...
(Nụ Cười Trong Mắt Anh)
Với một thân mình, cô liêu đơn chiếc,
Diễm Buồn đã chịu đựng biết bao oan khiên, tang tóc, suốt một cuộc đời toàn nghịch
cảnh! Như thế thì không buồn sao được(?). Và có buồn thì mới phát xuất ra thơ.
Càng buồn chừng nào, thì thơ càng hay chừng nấy, đúng như lời nhận xét của nhà
thơ lãng mạn Tây Phương:
"Les plus désespérés sont les
chants les plus beaux
Et J' en sais d' immortels qui sont de
purs sanglots !"
(Alfred de Musset)
Bây giờ thì Diễm Buồn cố gắng tìm
vui trong cuộc sống, vui trong sáng tác văn chương, mỹ thuật. Vui trong công
tác xã hội, phục vụ Quốc Gia, Dân Tộc. Và để qua một bên Lệ Đá xa xưa, để trau
dồi Văn Học, quyết tâm nghe lời Cha dặn trước khi qua đời:
"......................................
Hoàn cảnh nào cũng phải giữ
sắt son
Cha âu lo Nhân Nghĩa sẽ
không còn
Trên đất nước mấy nghìn năm
Văn Hiến..."
(Nỗi Buồn
Ba Tôi)
Chung luận thì văn thơ của Dư Thị Diễm Buồn rất
chân thành và truyền cảm tới tột độ, càng đọc càng xúc động như mình cùng sống
trong cảnh ngộ của nhà thơ, nhà văn mà lụy rơi hồi nào không biết! Lời thơ, văn
tuy tự nhiên mà trau chuốt, tình tứ đậm đà, thiết tha và trìu mến. Diễm Buồn là
nhà thơ, nhà văn quyến luyến với Quốc Gia Dân Tộc, với bẹ chuối hoa cau, với
nương rau luống sắn, với những thì thầm của bụi tre khóm trúc, ngàn đời che chở
mái nhà Nam. Với thi tập Những Ngày Xưa
Thân Ái nhà thơ khả ái Dư thị Diễm Buồn, mộc mạc mà trang đài, đã ung
dung đi vào Thi Đàn đa diện Việt Nam bằng cửa lớn, trang trí với nhiều cỏ lạ
hoa thơm.
Paris, Chiêu Anh Các
Mùa Giáng Sinh và Tân niên Mậu Dần
1998.
Học Giả Hương Giang THÁI VĂN KIỂM
Thi tập “Những Ngày Xưa Thân Ái” in xong
tôi gởi tặng bác Thái Văn Kiểm mười (10) cuốn để bác tặng theo ý thích, và nhắc
bác khi cần thêm cho biết sẽ gởi qua... Sau đó thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại
thăm bác, gởi tặng bác tác phẩm thơ hoặc văn tôi vừa mới phát hành...
Trong lúc điện đàm, có lần bác hỏi:
- Theo tôi biết chị không phải sanh trưởng
ở Huế, hay có thời gian sống ở Huế... Nhưng chị viết nhiều về Huế, có bài tôi
ưng ý lắm. Như là bài:
TÂM TÌNH GỞI HUẾ
Huế ơi Huế, đã bao mùa lá đổ…
Là mấy mùa xa cách Huế thân
yêu
Huế hôm ni còn duyên dáng mỹ
miều
Trong đêm đẹp trăng rằm soi
khắp lối?
Huế yêu ơi, bây chừ khu
Thành Nội
Hồ Tịnh Tâm còn sen nở ngát
hương?
Vầng hồng lên chiếu sáng lối
mờ sương
Quanh cấm điện trong hoàng
thành cổ kính
Cửu Vị Thần Công có còn cố định?
Điện Thái Hòa tám mươi cột
sơn son?
Đâu sân chầu, điện Cần
Chánh, Ngọ Môn…
Giữa triều đại uy hoàng
trong lịch sử
Chúa Nguyễn Hoàng, dựng xây
chùa Thiên Mụ?
Núi Ba Tầng, nhớ mãi trận Đống
Đa
Phú Văn Lâu, thời vang bóng
tân khoa
Bảy lăng tẩm nguy nga triều
nhà Nguyễn
Dòng An Cựu qua bao mùa
chinh chiến
Nắng đục, mưa trong tưới mát
đọt mầm
Lúa chín vàng vùng Hương Thủy
xa xăm
Chiều bảng lảng trên dòng
sông Hương Xá
Ơi Thừa Thiên, răng nhớ
thương chi lạ!
Lăng Cô nằm tĩnh lặng dưới Hải
Vân
Đảo Tiên Trà lồng bóng nước
bâng khuâng
Bình minh giục thuyền buồm
ra biển cả
Viếng chùa La Chữ, về thăm Đập
Đá
Yêu Cố Đô cổ kính đẹp dịu hiền
Tà áo bay, vành nón lá
nghiêng nghiêng
Quên mô được, o nữ sinh Đồng
Khánh!
Thương mẹ Quảng Điền quằn
vai, nặng gánh
Vạn sự thay chồng đời lính
bôn ba
Chuyến tàu đêm còi rúc lạnh
sân ga
Nỗi cô quạnh theo bước người
đưa tiễn!
Đụn cát Hà Trung… cảnh tình
lưu luyến
Sáng hừng đông qua Thừa Phủ
đò ngang
Chu choa ơi, tui e thẹn ngỡ
ngàng!
Bởi anh nớ, nhìn tui cười
ngượng ngập
!
Răng dị rứa! Trái tim tui khẽ
đập!
Ánh mắt ai, ôi dễ mến chưa tề!
Đêm mưa buồn, bên ni nhớ bên
tê!
Hương tình ái nhẹ thoáng vào
tuổi ngọc
Mắt tha thiết chàng nam sinh
Quốc Học
Lay hồn tui, chút xao động
bâng khuâng!
Rồi năm tê quốc nạn Tết Mậu
Thân!
Người xưa nớ, nửa đời chưa gặp
được!
Tui yêu Huế, trong tình yêu
non nước
Với chút tình thơ dại tuổi học
sinh
Bao đổi thay, theo năm tháng
vô tình
Tình yêu Huế vẫn mặn nồng
tha thiết!
Đầu dây điện thoại từ Mỹ vùng tôi ở xa
nước Pháp của bác hơn nửa vòng trái đất, cách mấy kinh tuyến và mấy vòng vỹ tuyến.
Trong lòng thiệt là khoái chí lắm, tôi mỉm
cườ, nhẹ giọng:
- Dạ xin cám ơn bác đã cảm nhận được bài
cháu viết. Thưa bác đúng như bác biết cháu cũng chưa ra thăm Huế lần nào cả...
Nhưng cảm nhận được Huế và viết được một chút về vùng đất Thần Kinh Vua Chúa ngự
một thời... là do lòng cháu hằng ngưỡng mộ Huế từ lúc còn đi học, và thích đọc,
thích tìm hiểu ít nhiều về Huế qua phim ảnh, tài liệu trong sách vở... Thưa,
cháu cũng không giấu gì bác “cháu có người yêu là Huế” bác ơi...
RĂNG O THƯƠNG HUẾ?
“Tui không được sinh ra ở Huế
cũng chưa lần đến Huế!
Nhưng thương Huế lắm, Huế
ơi!”
Có một hôm tôi về thăm lại
Huế
Chợ Đông Ba lành lạnh khói
sương mù
Con đường xưa ngập xác lá
chiều thu
Cầu Bạch Hổ nhạt nhòa màn
mưa bụi
Muốn ôm riệt vào lòng khu
Thành Nội
Vùng tôn nghiêm thấm đậm nét
đài trang
Hồ Thịnh Tâm gương trải dưới
trăng vàng
Hàng dương liễu mơ màng thôn
Vỹ Dạ
Trên đồi cao nhìn Cố Đô êm ả
Sứ nhà ai theo gió thoảng
hương thơm
Tóc ngang vai ấn dấu tuổi
trăng tròn
Thời cắp sách, thuở xuân hồng
tuổi ngọc
Thấp thoáng xa, bóng nam
sinh Quốc Học
Ôi thẹn thùng, má ửng nón
nghiêng nghiêng
Dáng thanh thanh tà áo trắng
dịu hiền
Như cánh bướm rợp sân trường
Đồng Khánh
Xuôi Bến Ngự, giữa đêm sao lấp
lánh
Mây bâng khuâng chừ bay mãi
về đâu?
Răng làm mưa cho ủ dột A
Sau?
Mưa phủ trắng những mồ chôn
tập thể
Mưa Phú Lộc, mưa sa từ nguồn
lệ
Khóc thương đời, khóc Huế Tết
Mậu Thân
Họ có đâu vi phạm Tử Cấm
Thành
Sao thi thể dập vùi không
nguyên vẹn?
Mỏi mắt tìm người xưa ơi, lỗi
hẹn!
Những địa danh nào mình đã
viếng thăm?
Núi Ngự Bình cách trở Cửu
Long Giang
Người ra đi, để sầu thương
chất ngất
Huế trong tôi với tâm tình
chân thật
Dù bây chừ đàng ấy đã xa rồi
Vẫn một lòng tưởng nhớ Huế
xa xôi
Thương Huế lắm, người yêu
tôi là Huế!
Mấy năm sau có dịp qua thăm Paris đôi ba
lần, nhưng “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” tôi vẫn không có duyên nên
chưa hân hạnh được diện kiến “Học giả Hương Giang Thái Văn Kiểm”! Đó là một
mất mát và tiếc nuối lớn trong tôi!
Để rồi gần đây, tôi bàng hoàng xúc động
đọc tin trên các Diễn Đàn:
Vô cùng thương tiếc hay tin
Cụ THÁI VĂN KIỂM
qua đời ngày 21 tháng 2 năm
2015.
Hưởng đại thọ 93 tuổi.
Vùng chúng tôi ở sáng hôm nay gần hết
mùa đông! Nhưng cả không gian một màu xám tái ủ dột, gió se sắt lạnh và mưa
phai phái... rồi mưa nặng hột rạt rào như đổ nước! Hướng về phương trời Paris
xa thăm thẳm trong cơn mưa gió bão bùng, tôi chắp tay nguyện cầu:
Thành kính chia buồn cùng tang quyến
Xin nguyện cầu Hương linh bác
Hương Giang THÁI VĂN KIỂM
sớm về nước Chúa
California, cuối mùa đông năm Ất Dậu 2015
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
Trong “Bóng Thời Gian” phát hành 2021
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email: dtdbuon@hotmail.com
No comments:
Post a Comment