… “Viết … như một kỷ niệm của những năm đầu tiên
sau 1975, tại Tuy Hòa-Phú Yên
CHIẾC XÍCH LÔ… TRONG ĐÊM GIAO THỪA
Mấy ngày gần đây, mỗi khi lái xe trên đường
Bolsa, trục lộ chính dẫn đến trung tâm Little Saigon đều bị kẹt xe, kẹt xe một
cách “trầm trọng”, nhưng hình ảnh kẹt xe trong êm ả, êm ấm và yên lặng…. Chẳng
mấy khi nghe tiếng còi xe, chẳng mấy khi thấy người cùng người “ăn thua đủ”
vì tông xe, vì hun đít xe với nhau, chẳng mấy khi thấy người lái xe thò đầu
ra thành cửa kiếng phía trước văng tục, chửi thề… Uhm, như vậy là văn minh lắm!
Ý thức đến thế là cùng! Những chiếc xe nối đuôi nhau bon bon trên con đường
quen thuộc, hai bên đường tiệm quán tấp nập người qua lại, trên lề đường đồng
hương dắt díu nhau nói cười uyên thuyên và trên tay không quên “đèo bồng”
thêm một chậu hoa, một chùm mai, một nhánh đào cùng với những khuôn mặt rạng
rở, vui vẻ vây quanh làm cho không gian nơi này đệm nét Xuân về rộn rã, tươi
vui đầy sức sống. Uhm, quên chứ, chỉ có nhìn thôi sao? Dĩ nhiên không thiếu
những tiếng pháo, những tràn pháo và cả mùi pháo phản phất quanh đây…. Thế là
Xuân! Xuân của đồng hường Việt Hải Ngoại là thế, chỉ thế thôi! nhưng thật yên
bình và tuyệt vời…
Khác với những cái Tết lúc tôi còn ở quê nhà, nơi
một thành phố bé nhỏ Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên thuộc miền Trung Việt Nam. Tết với
đời sống túng quẩn, thiếu thốn, lo âu, sợ sệt, và những cái Tết tôi đã sống
cùng với gia đình không có ông Ba, thiếu vắng anh chị em trong nhà. Tôi không
biết tại sao lại có sự trống vắng, xa vắng, thiếu vắng nhiều thành viên trong
gia đình trong những ngày Tết như vậy… Uhm, thì ra là mỗi người tự đi kiếm
cái Tết riêng cho mình. Chị Hai chạy đầu trên xuống xóm dưới nhận thêm cái
áo, cái quần của người ta đem về may vá kiếm thêm chút tiền mua miếng thịt
heo nạt, heo mở nấu cho thằng cháu 1 tuổi ăn tẩm bổ thêm dinh dưỡng mà cả năm
sau khi sanh không còn một hột sữa trong người cho con bú. Anh Ba theo một
nhóm người quen đu theo tàu lửa ra Hà Bằng, La Hai đốn củi về bán cho mấy nhà
buôn làm than. Mấy đứa em gái thèm một cái áo mới, thèm một đôi guốc mới khi
thấy mấy đứa bạn cạnh nhà cùng lứa đang se sua khoe đồ mới làm tụi nó phải đứng
nhìn cho đở thèm. Còn bà Má thì đi vào Sai Gòn mua một ít bột mì, một ngọt về
bán kiếm chút lợi tức xoay sở để nuôi mấy miệng ăn trong gia đình. Người quan
trọng nhất của gia đình là ông Ba (daddy) thì đang nằm trong Tù cộng sản, mà
“họ” tráo trở gọi là Trại Cải Tạo… Thế là căn nhà chỉ còn một mình tôi, cái Tết
năm đó của tôi thất ảm đạm, thật buồn tẻ, chẳng biết làm gì, cũng chẳng biết
nghĩ ra điều gì với cái Tết không có ông ba, không có bà má, không có chị
Hai, anh Ba và mấy em gái… không có ai cả!!!
Tết năm đó, một cái Tết khó quên và mãi mãi không
bao giờ phôi phai trong tiềm thức. Nhà cậu tôi bên cạnh, sau bốn năm ở tù cộng
sản vì “tội” làm Lính VNCH. Được thả về đúng ngày 23 âm lịch, ngày ông Táo về
trời. Gia đình cậu mợ ôm nhau mừng mừng tủi tủi được vài ngày, rồi bắt đầu
tính kế sinh nhai. Đứa con gái được 4 tuổi, đang tập kêu tên papa cho quen miệng,
vì suốt bốn năm ở tù chưa một ngày được về thăm từ khi đứa con gái lọt lòng
me. Năm đó, ông cậu chưa kịp gặp mặt con thì có lệnh ra chiến trường, rồi chiến
trận kết thúc, rồi…. Trở thành người lính chiến bại bắt đắc dĩ và thành người
tù cộng sản một cách oan ức. Đứa con gái thật xinh, thật thông minh. Mỗi ngày
nó ra chơi cát, vọc bụi, đếm củi tre trong bếp với mẹ. Gia đình ông cậu cùng
chung số phận “nghèo rách mồng tơi” như bao gia đình khác khi bộ đội cộng sản
ngự trị và xâm chiếm miền Nam. Nhìn con bé Bi gầy guộc, nhỏ thón, gần như
còi. Suốt bốn năm, bà mợ không làm gì ra tiền, đứa con gái bị bệnh hoạn triền
miên, chạy loanh quanh tìm thầy chữa bệnh, nhà có cái gì cũng đem ra bán, bán
hết, bán sạch kể cả cái gối kỷ niệm đêm tân hôn cũng đã bán nốt để lấy tiền
chạy thuốc cho con. Gia tài của ông cậu bây giờ là “vô sản”, nhìn vợ, nhìn
con gái như vậy, Cậu không đành lòng. Sau một vài ngày nghỉ ngơi, hoàn hồn, bắt
đầu ông Cậu đi quanh phố, đi khắp huyện kiếm việc làm. Một thằng lính tù mới
ra, và bị tù vì tội “made in Mỹ Ngụy” lại càng không ai dám chấp chứa, dám nhận….
Ông cậu đi lững thững suốt ngày, sáng sớm đi, đến cả chiều tối mới về, ngày
nào về cũng lắc đầu với bà mợ: “Em đừng buồn, em đừng lo, anh sẽ quyết không
để cho mẹ con em gầy yếu, bệnh tật như vậy mãi. Em tin anh nhé! Thôi mình
ráng chịu đựng ít ngày, thế nào anh cũng phải kiếm ra tiền để mua lại lư
hương cúng cha má, thắp nén hương cúng tổ tiên ngày Tết, và anh phải mua cho
con gái mình chiếc áo mới, món đồ chơi mới khác hơn nắm đất, bụi cát mà con
gái mình vọc mỗi ngày. Và anh sẽ mua cho em chiếc lược, chứ cái lược của em gẫy
gần hết mấy cái chân, làm sao mà chãi đầu? Anh sẽ chãi tóc em cho thẳng mướt
để chúng ta và con đón một cái Tết khác hơn, hy vọng hơn, em nhé!”.
Ngày ba mươi Tết, tôi qua nhà ông Cậu, thấy mợ
vui vẻ hơn bao giờ. Tôi hỏi Cậu đâu, bà mợ chưa trả lời thì bé Bi nhanh nhẩu
lên tiếng: “Anh Sáu ơi! Cha hôm nay đạp xích lô, cha có xích lô rồi, cha nói
sẽ mua áo mới cho em nè, cha nói sẽ mua trái banh nhựa cho em chơi nẻ đếm cây
nè. Tối cha về mua nhiều đồ lắm!”. Bà mợ nhìn tôi cười nhẹ, hiền hòa với đôi
mắt đầy hạnh phúc và niềm tin cho một ngày mai tốt hơn. Mợ nhìn tôi lên tiếng:
“Sáng nay chú Hai ở trong khu tòa án cũ, cuối đường Phan Đình Phùng, cháu nhớ
không? Ah, chú Hai Phùng cũng lớn tuổi rồi, hôm nay chú Hai muốn ở nhà làm một
số việc để chuẩn bị cúng kiếng và đón Giao Thừa nên chú không đi kiếm khách
như mọi ngày, bởi thế chú cho Cậu mượn chiếc xích lô, kiếm khách cuốc được
bao nhiêu thì cuốc, khi nào xong thì đưa lại cho chú Hai, rồi chia Ba/Bảy, có
nghĩa là kiếm được 10 hào thì mình được bảy hào rồi chia cho chú ba hào. Cậu
mừng lắm, lật đật đi liền, mới sáng sớm, gà chưa kịp gáy điểm buổi sớm mai là
cậu của cháu đã rời khỏi nhà rồi và chẳng kịp ăn cháo luôn… Đó, cháu thấy
chén cháo còn kia kìa, tội nghiệp cho cậu của cháu lắm, từ ngày ảnh ra khỏi
tù, cậu nhìn mợ, nhìn con Bi ốm yếu gầy gòm, ảnh cứ khóc lén hoài. Mợ thương
cậu của cháu lắm”!
Tôi lại xoa đầu đứa em gái con ông cậu, sẵn tay bồng
nó lên trên vai xoay vòng vòng chơi trò dí dọ, dí thá thả bò, thả trâu ngoài
ruộng… Không gian trong căn nhà nhỏ của Mợ lúc này thật ấm cúng, nhộn nhịp với
tiếng cười khúc khích, với lời nói vô tư hồn nhiên của con bé làm cho bà Mợ
luôn có nụ cười ngự trị trên môi mà lâu và từ lâu lắm rồi tôi mới thấy khuôn
mặt bà mợ vui, hạnh phúc và đẹp như vậy….
Tám giờ tối… chín giờ tối… mười giờ tối….Rồi mười
một giờ tối…. chiếc xích lô và cậu vẫn bặt hơi âm tính. Bà mợ lo lắng mới chạy
qua nhà gọi tôi: “Luân ơi! Sao đến giờ này Cậu của cháu chưa về, không biết
có làm sao không nữa. Phố Tuy Hòa nhỏ xíu xiu, đâu có lớn, đâu có đông người
sao không thấy cậu đâu hết vậy. Mợ lo quá đi thôi”… Tôi đang lau bàn thờ Phật
và bàn thờ của ông Cố và ông Nội, nghe mợ nói nên bỏ ngang, rồi nói với lời
an ủi bà mợ: “Chắc không sao đâu, mợ yên tâm nghe. Cháu nghĩ ông Cậu muốn chạy
thêm vài cuốc để kiếm tiền mua quà cho con bé đó mà. Chắc tí xíu nữa ông Cậu
của con sẽ về, rồi sẽ mang nhiều đồ ăn, đồ chơi cho mợ và con bé. Ông cậu còn
thiếu cháu một ván cờ tướng cuối năm nữa mà, vì hôm qua chơi với nhau bất
phân thắng bại, tối nay đón Giao Thừa xong là cậu cháu phải giải quyết chiến
trường trên bàn cờ tướng, nếu không xong chắc ấm ức lắm!!. Hihhi, Mợ đừng có
lo nhiều nữa nhé! Để cháu thắp hương xong rồi cháu đạp xe đi vòng vòng kiếm Cậu
cho mợ, chịu chưa?”…
Bà mợ gần như an tâm hơn, gật đầu, cười nhẹ: “Nhà
cháu ai cũng đi hết, còn có một mình cháu là con trai vậy mà cũng biết dọn dẹp
nhà cửa, lo bàn Phật, thắp hương ông bà tổ tiên, Cháu thật là tốt. Trong thời
gian cậu của cháu ở tù, nếu không có má và tụi cháu giúp đỡ, an ủi, mợ không
biết sẽ thế nào, không biết làm sao nuôi nổi con bé, không biết làm sao mà chịu
đựng được hoàn cảnh chật vật, túng thiếu đủ điều như vậy. Gia đình cậu mợ nhớ
ơn ba má, và tụi cháu suốt đời”…
Tôi cười: “Sao hôm nay mợ khách sáo vậy? Mình là
gia đình, mình là bà con, cậu là cậu ruột của cháu, là em ruột của má cháu,
mình không nâng đỡ và an ủi lẫn nhau làm sao được. Mợ đừng có nói vậy, bà má
nghe được là bà giận đó. Mợ không biết tánh bà má của cháu hả, mỗi lần giận
là như Trương Phi, đứa nào đứng gần đó là lãnh đủ. Hihihi!!! Ok, cháu xong rồi,
để cháu đạp xe chạy lên ga xe lửa coi thử có cậu ở đó không nghe. Mợ về chờ
tin tốt của cháu, bảo đảm tốt trăm phần trăm mà”…
Bà mợ gật đầu vài ba cái, vén mái tóc lên cười nhẹ,
nói lời cảm ơn rồi bước ra về. Bà mợ tên Đào, lúc đó chỉ khoảng 25, 26 tuổi
thôi. Tuổi mợ không lớn, nhưng trông đã già. Nét đẹp của mợ bị chìm sâu dưới
lớp cằn cõi bào mòn của thời gian vì cuộc sống lầm than, khốn khó và bị đe dọa
từng ngày dưới chế độ cộng sản…. Bốn năm sau khi “người rừng” về châu phố chiếm
toàn miền Nam, những gia đình và nhất là những người vợ của lính VNCH lâm vào
cảnh bơ vơ, khủng hoảng, túng quẩn, thiếu thốn và nhiều lúc còn bị chính quyền
địa phương hà hiếp, bắt nạt một cách dã man.. Có nhiều người vợ lính chịu
không nỗi vì sợ hãi, vì khổ cực, vì cùng cực nên phải bỏ chồng đi theo mấy
tên công an phường, mấy tên quan quyền cộng sản xu thời. Và cảnh vợ bỏ đi,
con nheo nhóc tự sống, tự lập dù mấy đứa con tuổi đời chưa lên mười. Gia đình
nào có nội, có ngoại thì mấy con thơ còn được ít nhiều sự che chở, nhưng thời
đó mỗi người đều mang một gánh nặng từ tinh thần lẫn vật chật trong sự hớt
hãi, run sợ và khủng hoảng, nên người giúp người, bà con giúp bà con là một
điều rất ít xảy ra…. Bà mợ Đào cũng không thoát ra khỏi cảnh này, quốc nạn
thì chịu tang chung của cả dân tộc. May mắn, mợ và con gái ở gần nhà, nên có
gì chạy qua chạy lại đêm hôm giúp đỡ và dùm bọc nhau…
Tôi đạp xe lên dốc Trần Hưng Đạo, chạy một vòng
qua đường Lê Trung Kiên (công viên nơi ty cảnh sát cũ), đão quanh con đường Tản
Đà, đạp xe tiếp qua đường Nguyễn Huệ, rồi chạy ngang qua đường Lê Lợi ghé vào
bến xe đò. Chẳng còn chiếc xe nào nơi này, giờ này có lẽ ai cũng về nhà để
cùng đón Tết với gia đình. Bên xe đèn tắt tối ôm, chẳng có bóng dáng nào, tôi
tiếp tục đạp xe trên đường số Sáu (6th), lúc này mồ hôi vả ra từng hột ướt đẫm
cả áo, con dốc đường này sao mà cao quá thế này, bình thường mình chở một thằng
bạn ngồi sau cũng đạp lên dốc một cách dễ dàng. Mệt quá, tôi nhón mông cố đạp
cho qua con dốc lên đến ga tàu lửa Tuy Hòa. Xa xa tôi thấy ông Cậu đang đứng
bên cạnh chiếc xích lô ngã giá với hai người đàn ông. Tôi lại gần, ông Cậu
nhìn thấy tôi cười vui: “Cháu đi đâu đêm khuya thế này?”..
Tôi vừa thở vừa trả lời: “Cậu Bảy ơi! Xong cuốc
xe này rồi về nghe, mợ và em nó chờ và lo lắm đó. Mợ nhờ cháu đi kiếm cậu nè!
Nãy giờ cháu chạy hụt hơi kiếm ra cậu, may là thấy được cậu ở đây, mừng muốn
đứt hơi!”… Ông cậu nhìn tôi rồi xoa đầu: “Tết nhứt mà nói sống nói chết không
nên nhé! Cháu về đi, cậu cuốc xong cuốc này là về. Thấy không, hồi chiều cuốc
được chuyến chở mấy bao thang, nặng muốn chết, lần đầu tiên đạp xích lô mà.
Lúc đầu mấy bao thang làm chổng gọng không biết làm sao, may mà nhờ mấy anh
ba gác kia giúp một tay chứ không cậu không biết làm sao.. Bà chủ cho cậu
thêm 25 hào, Cậu đã mua cặp áo quần và trái banh cho con Bi rồi nè, Hey! Mày
thấy cái lược này đẹp không? Lần đầu tiên cậu mua đồ tặng cho mợ mầy, sao mắc
cở quá đi. Thôi, kệ cha nó, vui là được! Tối nay cúng xong, cậu với mầy phải
thắng phải thua cho xong ván cờ tướng đó nghe. Cháu thua là cái chắc!!!”. Cậu
cười, tôi cười, hai ông khách nhìn tôi châm châm rồi nhếch môi cười theo miễn
cưỡng.. Thấy hai ông khách này người to con vạm vỡ, trên tay có mấy hình xâm
vừa bị xóa (cộng sản thấy ai xâm hình xâm chữ lên người là mệt chuyện thời
đó). Ông cậu xoa đầu tôi rồi hất hàm ra dấu cho tôi về trước nói cho mợ khỏi
lo và chờ cậu về.
Tôi đạp xe đi tà tà, lòng hân hoan. Ông cậu nhón
mông lên đạp, trời nóng thí mồ, không biết tại sao hai ông khách bắt ông cậu
phải bỏ mui xe xích lô xuống che, giống như che mưa che nắng, và họ đòi chở
xuống bến sông, gần chùa Ông trong khu triền núi. Chiếc xích lô của cậu chạy
trước, xe đổ xuống dốc đường Trần Hưng Đạo, thì bỗng nhiên có bốn chiếc
Mô-Tô-Ba (loại xe mô tô có ba chỗ ngồi, giống như của Đức Quốc Xã), chạy phía
sau la hét tùm lum: “Đ. M. ngừng xe! Đ.M. tao bảo mầy ngừng xe không?”. Đó là
tiếng của mấy ông công an hét vào mặt ông cậu. Lúc đó có lẽ ông cậu ngỡ ngàng
chưa biết phải làm thế nào, vì chiếc xe xích lô đang thả dốc với tốc độ khá
nhanh, chắc cậu nghĩ để xuống hết dốc rồi ngừng. Tôi cố gắng đạp xe theo sau
chiếc xích lô và mô-tô-ba, hai xe của công an ép vào xe xích lô hét to: “Đ.M.
ngừng xe ngay! phải ngừng xe ngay! không tao bắn chết mẹ mày. Ngừng, ngừng!!!”.
Xe xích lô tiếp tục đổ dốc xuống gần tới bùng binh Ngã Năm rồi cua qua đường
Phan Đình Phùng, thì bỗng nghe tiếng súng nổ “bầm bầm bầm bầm….”. Chiếc xích
lô nghiêng qua rồi lật một bên, ông cậu té ầm xuống đất, ngay trước hẽm nhà,
bà mợ và con bé Bi đang đứng đầu hẽm chờ Cậu từ bao giờ, thấy vậy chạy ào
ra…. Mợ chạy lại ôm cậu trong vũng máu, tôi quăng xe đạp chạy lại chỗ Cậu, mấy
ông công an chạy thật nhanh lại còng hai tên khách, thì ra là hai tên tội phạm
của mà công an bấy lâu nay theo dõi…. Ông cậu thoi thóp, thở từng hơi, tôi ngồi
xuống bên cạnh nhìn khuôn mặt khắc khổ của cậu quyện trong vũng máu mà lòng rối
bời, không biết phải làm gì…, con bé Bi la khóc: “Cha ơi! Cha ơi! Cha
ơi!!!!”, bà mợ gào thét: “Anh ơi! Anh ơi! Đừng bỏ em! Đừng bỏ em! Anh đừng bỏ
em với con một mình, em sợ lắm! Em, em… sợ lắm! Anh ơi!Sao lại thế này, sao lại
thế này hở anh? Trời ơi, trời ơi là trời ơi”!!!
Tay của cậu bóp chặt lấy tay mợ, hình như đang muốn
nói ra điều gì, máu và hơi thở tựa vào nhau tuông trào, cậu mở mắt nhìn mợ,
chưa kịp nhìn con thì nghiêng đầu gục qua một bên. Đôi mắt cậu mở to, tay cậu
trong tay mợ không buông… tôi ngồi quỵ xuống, nước mắt cứ trào ra, rồi tiếp tục
trào ra, tôi nhìn cậu trong vòng tay mợ, bên cạnh con bé Bi ôm chân cha. Tôi
muốn đưa tay xoa vào người cậu, nhưng lúc này tôi muốn giành hết con người của
Cậu cho Mợ. Tiếng khóc của mợ mỗi lúc một lớn, rồi lớn hơn: “Anh ơi! Đừng bỏ
em! Đừng bỏ em!!”. Bàn tay mợ rời tay của Cậu, rồi vuốt nhẹ đôi mắt. Mắt cậu
từ từ nhắm lại, nhắm lại. Môi mợ đặt lên mắt cậu hôn vồn vã hôn như chưa bao
giờ được hôn, nước mắt của mợ hòa lẫn máu của cậu tạo thành một không gian
tan tóc, thương cảm đến tận cùng của kiếp người…
Mấy ông công an chặn người qua lại, hất mợ qua một
bên, rồi chở xác của cậu lên xe. Mợ lúc này như người không hồn, ngồi thừ ra,
không nói gì hết, không biết gì hết… Mọi người cũng tản mác thưa thớt dần.
Tôi lại đỡ mợ đứng dậy, một tay dẫn bé Bi, một tay đỡ mợ vào con hẽm, vào
nhà… Tôi đặt mợ xuống giường, mợ nằm xuống nhưng mắt không nhắm, nước mắt cứ ứa
tràn ra đọng đầy trên mi, trên má. Tôi bồng bé Bi đặt xuống chiếc phản trước
nhà, ôm nó vào lòng, hôn nhẹ lên đầu nó, và vỗ cho nó ngủ. Con bé thiếp dần
vào giấc ngủ, tôi rón rén đứng dậy, thì nghe tiếng chuông chiếc đồng hồ cũ kỷ
rung từng tiếng, tôi quay đầu lại nhìn, hai chiếc kim đồng hồ khép vào nhau
thẳng đứng chỉ số…. 12 giờ đêm!
Tôi bước ra khỏi con hẽm, lê từng bước nặng nề đi
lại nơi ông Cậu vừa ngã gục. Vết máu loang còn đó, chiếc lược làm quà chưa kịp
trao cho mợ còn đó, chiếc xích lô nghiêng ngã còn đó, nhưng Đêm Giao Thừa của
tôi… đã trôi qua, mất rồi!!!
Phan Nguyên Luân
|
Friday, February 3, 2017
CHIẾC XÍCH LÔ TRONG ĐÊM GIAO THỪA (Phan Nguyên Luân)
Labels:
-Truyện Ngắn
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment