Năm mười tám tuổi ba tôi theo hai người
anh lớn rời quê trên một chiếc thương thuyền nhỏ cùng với các thanh niên khác
cùng trạc lứa tuổi. Năm đó quân đội Nhật tiến mạnh, tới đâu cũng nghe có chết
chóc. Những người dân quê hoảng sợ bảo nhau đưa thanh niên trong gia đình đi trốn.
Cứ đi về phương Nam, họ bảo. Nơi đó quân đội Nhật chưa tới và có thể sẽ không tới.
Ông bà Nội tôi đưa tiễn ba người con trai ra bến phà. Cô em gái, cô tôi, vẫy
tay chào các anh, trong lòng cũng háo hức đi nhưng bà Nội tôi đã giữ cô lại.
Ba tôi định cư ở Huế với những người
cùng họ tộc. Ông giúp việc trong nhà để có chổ ăn chổ ở. Rồi ông ra riêng tự lập
làm nhiều công việc khác nhau kiếm kế sinh nhai. Có một năm, ông Nội tôi gửi
thư báo tin cô tôi lấy chồng, nói các anh có về dự đám cưới của em. Năm đó, ba
tôi bệnh nặng vì lý do gì tôi không còn nhớ, một cánh tay ông bị bại liệt phải
nằm nhà thương một thời gian. Vừa tiền bạc không có vừa bệnh hoạn, ba tôi quyết
định không về. Ba tôi nói, ông không muốn về trong một hoàn cảnh như vậy. Ba tôi
đã không dự được đám cưới em gái mình. Một ít lâu sau, năm 1949, hoàn cảnh chiến
tranh lại càng khốc liệt hơn. Ông đã không về được để thọ tang ông Nội tôi.
Ba tôi sống ở Huế khá lâu. Bệnh ông đã
bớt hẵn. Ông kể mỗi chiều ông thường lên cầu Trường Tiền nghe nhạc công người
Pháp biểu diễn ở Toà Khâm Sứ bên bờ sông Hương. Ông vẫn đi làm công, từ làm
bánh, làm nhang đến chạy hàng cho những thương hiệu. Một năm, một chủ tiệm sai
ông vào Phan Rang mua hột dưa để chuẩn bị bán Tết. Ông đem về mấy bao bố hột
dưa sống. Chủ tiệm nhìn thấy tái mặt bởi họ muốn mua hột dưa chín rồi đem ra
bán lại cho các tiệm khác. Họ đâu có biết cách gì để biến chế hạt dưa. Chủ tiệm
bắt ba tôi phải lấy số hàng nầy. Mỗi tối, ba tôi đi làm về nhà rồi bắt đầu ngồi
rang hột dưa xong trộn chút phẩm đó vào. Và vậy là hột dưa được sẵn sàng chờ
bán. Cùng một lúc chiến tranh lan rộng. Đường đi vào Phan Rang bị bom không
thông thương được. Tết năm đó cả thành phố Huế và Đà Nẵng hột dưa bị khan hiếm.
Ba tôi trúng hàng lớn và kiếm được khá lời. Mỗi lần kể lại câu chuyện này, ngay
cả khi đến mấy mươi năm sau, ba tôi vẫn cười lớn sảng khoái nghĩ tới cái rủi mà
lại thành cái may.
Vài năm sau số thanh niên rời làng quê
cùng khoảng với ba tôi bắt đầu đi thêm vào miền Nam. Có người đi tới tận Sài
Gòn. Hai bác tôi, người tới Phan Thiết, người ở Tuy Hòa. Khi vào Bình Đình ba
tôi quen được những người cùng họ tộc. Ông quyết định ở lại đây và nhận làm bà
con bên nội của mình. Ba tôi lập gia đình và bắt đầu cuộc sống định cư như nhiều
gia đình khác. Chúng tôi lớn lên có nhiều cô chú xung quanh.
Ba tôi rất giỏi toán mặc dù ông chỉ được
đi học tới lớp năm. Năm tôi thi vào lớp Sáu và phải luyện thi với hai cuốn sách
600 Bài Toán Mẫu và 144 Bài Toán Đố một tay ông đã giải những bài toán đó cho
tôi. Ông cũng rất giỏi về hai môn Sử và Địa. Ông rành rẽ Thế Chiến Thứ I, Thế
Chiến Thứ II, hay những nền văn mình cổ cũng nhờ ông đọc sách rất nhiều. Ông lại
còn viết chữ rất đẹp. Năm xưa, chủ tiệm nơi ông làm công gả con gái có chồng, họ
giao cho ông viết thiệp mời đám cưới. Khi còn ở trong nước cũng như tại hải ngoại
ba tôi đều đọc báo và nghe đài phát thanh BBC mỗi ngày. Một lần, năm chị tôi học
lớp đệ Tứ, nhà trường có làm đặc san Xuân và bắt học sinh mỗi người phải nộp một
bài thơ hay bài văn, chị tôi đã cầu cứu đến tôi và ba tôi. Chị tôi vốn dở về viết
lách. Tối đến ba cha con còn ngồi xung quanh chiếc bàn tròn dưới ánh đèn dầu
vàng và bất đầu làm thơ cho chị tôi có bài đem nộp ngày mai. Nghĩ lại thật buồn
cười.
Mùa hè, ba tôi vót tre làm diều cho em
tôi chơi. Ông kể về tuổi thơ của ông thả diều với bạn bè trên đồng trống. Ba
tôi còn rất giỏi về những môn thể thao khác như cờ tướng, bóng rổ, bóng chuyền,
banh bông, và những môn trong ngành gymnastics. Những ngày hè oi bức, như nhiều
gia đình xung quanh chúng tôi thường ra hóng mát ở trước nhà. Đôi khi có lẽ
trong lòng có chút cảm hứng, ông ngâm những bài thơ cổ mà chỉ có ông hiểu được.
Một trong những bản nhạc ba tôi thích hát là bài Xuân Và Tuổi Trẻ. Khi cuộc chiến
của năm 1975 khốc liệt, tưởng đất nước chia đôi ở đèo Cả Nha Trang ba tôi gửi
em tôi theo bà con đi lánh nạn. Ông tin rằng em tôi sẽ gặp chị tôi khi vào
trong đó. Riêng ông và Má tôi ở lại để chờ tôi về.
Mặc dù thời cuộc chia rẽ, trước năm
75, gia đình tôi có đường dây liên lạc với cô tôi. Năm bảy lần gửi thư và tiền
bạc về cho cô thì cũng có hai ba lần tới được. Năm 1979 ba tôi viết thư thăm
cô, lá thư gửi đi từ bưu chính nơi ông ở tới bưu chính nơi cô tôi ở. Lá thư đầu
tiên trực tiếp của hai anh em với nhau. Từ sau đó, cứ vài năm ba tôi lại về
thăm cô. Ba tôi thương cô đã phải ở lại một mình lo cho ông bà Nội tôi. Ngôi
trường tiểu học ngày xưa ba tôi đi học hư hao nhiều. Lớp thanh niên bỏ làng đi
lánh nạn năm xưa đã trở lại và quyên góp xây ngôi trường khang trang tươm tất
cho con cháu trong làng có chỗ đi học. Tôi cũng thật sự mừng là ba tôi đã có cơ
hội để trở về quê hương thắp nhang cho ông bà Nội tôi và gặp lại được cô tôi.
Quê hương, cho dù đã mấy mươi năm và xa cách ngàn trùng, nó vẫn cảm thấy rất gần
bởi vì quê hương ở ngay trong trái tim của mình.
Sức khỏe của ba tôi yếu đi và ông đã
không còn về quê thăm cô tôi nữa. Năm đó ông đau nặng tưởng không qua nỗi. Ngồi
trong phòng bệnh với ba tôi, lòng tôi buồn bã và ân hận vì đã không theo ông về
quê nội. Và tôi đã cầu nguyện thật nhiều với ơn trên cho ba tôi qua được kỳ này
để tôi về quê thay cho ông, gặp lại cô tôi, và mang tin về cho ông. Tôi nhớ tôi
đã cầu nguyện rằng, xin hãy cho ba con một thời gian nữa, hãy cho con một cơ hội,
về sau nếu phải đến lúc ba con ra đi con sẽ không van nài than trách.
Chị em tôi đã được về quê nội, vui mừng
gặp lại cô tôi. Cô tôi dẫn hai chị em đi trên đường tới ngôi trường ngày xưa
ông học. Cây đa lớn trước cổng trường, theo ông nói, là cây mới, bóng mát cũ đã
làm êm dịu bước chân ông đi qua biết bao nhiêu năm. Chúng tôi trở lại bến phà
nơi ông Nội đã đưa ba người con trai ra đi. Chiến tranh. Chiến tranh là cái gì
mà đã làm ngăn cách biết bao nhiêu gia đình. Cuộc đời ba tôi đã hai lần tỵ nạn.
Từ khi sống ở hải ngoại, cuộc sống của ba tôi đã hài hòa, bình an và nó thể hiện
qua bên ngoài của ông. Đi đâu ai cũng khen ông đẹp lão. Ba tôi rất thấm thía về
cuộc đời, con người và những thay đổi đôi khi có thể tàn phá tâm hồn. Nhưng ông
không hề phẫn nộ, chê bai. Ông nhìn cuộc đời với sự bao dung và cởi mở.
Một lần khi còn nhỏ, tôi hỏi ba tôi về
những chuyện người ta nói về thế giới của thiên đường và địa ngục, ba tôi trả lời
rằng, thế giới này mình còn chưa hiểu hết thì nói chi tới thế giới xa xôi, cứ
lo học hành, lo làm việc, và sống tốt với mọi người là đủ rồi. Hình như đó là
những lời kinh điển của ông, phải sống tốt với mọi người. Ông cũng thường nói,
mặt trời lên thì mặt trời xuống, cuộc đời có hợp rồi có tan, không có gì vĩnh cửu,
chỉ cần mình sống tốt trong cuộc sống hiện tại. Thực vậy, ông đã sống an nhiên
giữa Trời và Đất.
Ba tôi mất một ngày cuối tháng Năm, ở
tuổi 89, trong tuần lễ của mùa Tưởng Niệm, cách đây 10 năm.
No comments:
Post a Comment