Wednesday, May 8, 2019

NHỚ VỀ MỘT THUỞ XƯA CÒN SÀI GÒN (PHAN NGUYÊN LUÂN)

NHỚ VỀ MỘT THUỞ XƯA CÒN SAIGON…
Vài ảnh Sài Gòn xưa gợi nhớ một khung trời kỷ niệm
Logo Sàigòn năm 1870. Khi chiếm Sàigòn, người Pháp đã sáng
tác ra logo này. Hình ảnh hai con cọp trong logo thể hiện đây
là vùng đất hoang sơ. Nhưng dòng chữ Latinh Paulatim
Crescam có nghĩa là : “Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển”. Hình ảnh
con tàu hơi nước ở giữa logo cho biết đây là vùng đất nhiều
kênh rạch. Phía trên có vương miện 5 cánh như thông báo
Sàigòn sẽ giao thương với năm châu bốn biển. Logo Sàigòn
1870 thể hiện cách nhìn hoang sơ và triển vọng Sàigòn của
người Pháp.
Tới thời VNCH, Sàigòn là "Hòn Ngọc Viễn Đông"


                                                         ĐÊM NHỚ VỀ SÀIGÒN -

KHÁNH LY

                                   "Ðể đêm đêm ... nhớ về Sàigòn
                                    Thấy mình vừa trở lại quê hương
                                    Ðã gặp người một trời yêu thương
                                       cho lòng thêm chút ấm
                                   Thấy bạn bè thèm ngồi bên nhau
                                   Nhắc chuyện người chuyện đời thương đau
                                   Tình chia trong đêm sầu"


                                                                       

                        CHO TÔI ĐƯỢC MỘT LẦN - LỆ THU                                     "Cho tôi được một lần   Nhìn quê hương đợi sáng

                                              Ðời thôi oán thôi hờn

                                              Mến thương cùng kiếp người "

Bộ mặt Sàigòn, lúc 1955, người ta còn thấy những thầy Cảnh
Sát được gọi là Mã Tà, đứng huýt còi ở các ngã tư đường. Vậy
mà chẳng bao lâu chữ gọi mã tà đó đã biến mất.
Và sau này, sẽ còn nhiều cái biến mất như thế.
Nhiều cái biến mất như thế để Sài Gòn như hôm nay
Người ta vẫn còn thấy những xe
thổ mộ đủng đỉnh, kêu lóc tóc vui tai với các lục lạc của xe ngựa
kéo trên các con đường từ chợ Bến Thành xuống tận Ngã Tư
Bảy Hiền, hay từ Bến thành đi chợ Bà Chiểu. Nó vẫn như ngang
nhiên thách đố với các tuyến đường xe buýt nay đã chật ních
người. Nó vẫn có những khách hàng quen thuộc là những người
thuộc giới bình dân, giới buôn thúng bán mẹt.
Nó chỉ dần dần biến mất lúc nào
không ai hay khi mà những chiếc xe Lambretta ba bánh nhập
cảng từ Ý đã được chế biến lại cùng chạy trên những tuyến
đường đó. Xe Lam nhanh hơn, chở tới 12 người, 10 người ngồi
ở đằng sau, khi cần, có thể ghé thêm hai người ngồi bên cạnh
tài xế. Vậy tất cả là 13 người chứ không 12. Xe lại có nhiều
chuyến hơn, cứ đầy là chạy và ngồi thoải mái hơn. Đặc biệt bên
hai thành xe có ghi hai câu: Hữu sản hóa, đợt tự chủ. Nếu tôi
nhớ không lầm chính sách hữu sản hóa này là ở dưới thời ông
Kỳ làm Thủ tướng.
Nhưng xe xích lô ba bánh, xích lô đạp, đặc sản miền Nam vẫn
tồn tại trong suốt 20 năm miền Nam còn lại.
Người trung thành nhất với xích lô đạp, phải chăng là thi sĩ
Vũ Hoàng Chương? Có thể ông nghèo vì hút thuốc phiện,
nhưng mỗi lần đi dạy ở trường Chu Văn An ông luôn luôn
đến trường bằng xe xích lô đạp. Quần áo luôn luôn là ủi thẳng
nếp, thắt cravate, tay áo manchette bằng vàng, đầu chải bóng.
Người chạy xích lô đạp thường tranh nhau mời ông không
phải vì ông là thi sĩ, mà vì người ông nhẹ như bấc, không chắc
ông có cân nặng bằng nửa số ký của người khác không?
Tác giả Lửa Từ Bi hồi 75 đã đi tù Cộng Sản. Ông nhẹ như bấc,
không biết người Cộng sản sợ ông nỗi gì, sợ một người nhẹ như
bấc mà đầy đọa ông trong tù. Hỡi những kẻ ngồi lom khom viết
bài bênh “Cụ Hồ” nghĩ gì về việc đầy đọa trong tù một thi sĩ
trói gà không chặt? Lúc họ thả thì vài ngày sau, ông giã từ cõi
thế. Chắc ông cũng chả muốn sống làm gì?
Và có ai ngờ rằng, xích lô đạp vẫn
có chỗ của nó sau hơn nửa thế kỷ sinh tồn.
Sau giải phóng, rất nhiều nhà văn, nhà báo, chuyên viên,
giáo sư đổi ra đạp xích lô. Đó cũng là một góc cạnh về thế hệ
thanh niên miền Nam đọa đầy dưới gót của đôi dép râu?
Và tự nhiên nay nó trở thành biểu
tượng nếp sống văn hóa của một thời. Hànội nay nhan nhản
xích lô đạp dành cho khách du lịch chạy vòng vòng quanh khu
phố cổ Hànội.
Người ngoại quốc danh tiếng nào đến Việt Nam thì cũng có dịp
ngồi trên đó cả. Vợ chồng Brad Pitt và Angelina Jolie cũng có
dịp ngồi xe xích lô cho biết mùi vị Việt Nam.
Nhưng cái đổi thay rõ nét nhất là
cái áo dài con gái thay thế cho chiếc áo bà ba, chiếc quần hai
ống rộng. Chẳng bao lâu sau, chẳng biết từ lúc nào toàn miền
Nam mà đặc biệt các nữ sinh Trung Học, từ Sàigòn ra Trung,
từ Sàigòn xuống Lục tỉnh. Chỉ áo dài là áo dài. Áo dài Trưng
Vương, áo dài Gia Long, áo dài Nguyễn Bá Tòng, áo dài Nữ
trung học Lê văn Duyệt, áo dài Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho,
áo dài Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, áo dài Nữ Trung Học
Nha Trang và nhất là áo dài Đồng Khánh Huế.
Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời
                            NGÀY XƯA HOÀNG THỊ -
PHẠM THIÊN THƯ
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ..
Anh đi theo hoài
Gót giày thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng
Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Bước em thênh thang
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Áo em ngày nọ
Phai nhạt mây mầu
Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng …
Nó biểu tượng cho cái gì tinh
khiết, trinh nữ, tinh tuyền và mời gọi. Nó che dấu bằng hai vạt
áo dài mà như thể mở, biện chứng kín mà hở. Nó mời mọc mà
kín đáo chối từ, nó bày tỏ phái tính, sexy đến ứ cổ họng với nét
nổi lên của chiếc quần lót hằn lên tuổi dậy thì. Không có y phục
phụ nữ nào trên thế giới lại sexy đến như thế. Ngay cả sau này
với mini-jupe cũng không sánh bì.
Nó không cần đến những Cardin, Courrèges, St. Laurent,
Paco Robanne. Cùng lắm, nó chỉ thua Le Panty, Monokini,
quần lót Le petit bâteau của thập niên 1970 Nhưng những thứ
này phải “ăn gian” từng centimét mới có được như thế.
Áo dài không ăn gian. Cạnh đó là hàng nút bấm mong manh
như lối ngõ vào bên trong nằm hở ra cạnh sườn. Nó không
những chỉ là một nét đẹp con gái mà nó trở thành biểu tượng
cho một nếp sống văn hóa Việt Nam.
Sau này, không biết bao nhiêu những tranh ảnh, bìa báo Xuân,
báo Tết chụp hình các thiếu nữ trẻ miền Nam trong chiếc áo dài
truyền thống đó.. Và người ta có thể hãnh diện về điều này mà
không có gì phải hổ thẹn khi nói đến. Tuổi thanh xuân thiếu
nữ đi liền với nét đẹp con gái ấy.
Nó phản ánh thế hệ thanh thiếu
nữ thời ấy mà hễ bất cứ ai không còn là con gái, xồ xề một chút,
vùng đùi, vùng mông nở nang một chút là mặc áo dài thường
khó coi.
Sự đòi hỏi của tôi có khắt khe quá chăng? Nhưng chính sự đòi
hỏi khắc nghiệt ấy làm tăng giá trị chiếc áo dài miền Nam tuổi
trẻ. Nhiều phụ nữ, các bà mặc trong các dịp lễ hội. Thấy làm
sao.
Rất tiếc sau 75, ra ngoài đường, Sài gòn vắng bóng chiếc áo
dài. Cũng là vắng bóng tuổi trẻ miền Nam? Hay tuổi trẻ miền
Nam không còn nữa? Người ta không còn phân biệt ai là con
gái, ai là đàn bà được nữa, đến như thể ai cũng là đàn bà, đến
như thể ai cũng mất cả rồi.
Khi không còn những áo dài đó, Sàigòn buồn thiu. Như cây
rừng không còn lá.
Tuổi trẻ miền
Nam thời ấy biểu tượng vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài
trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác, đừng xanh đỏ lò loẹt.
Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy đùi
trinh nữ, cho thấy tuổi dậy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước
đi hay khi ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng.
Bây giờ, tôi không thấy những
bước đi kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái,
mình ong thon thon ngồi trên chiếc xe Solex trông giống như
một con bò ngựa biết bay. Phất phới, tung gió, nhẹ lướt, mái tóc
hất lại đẵng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng sau
những cái nhìn dõi suôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm
thuồng.
Ingarary gọi đó là một chuỗi diễn hành phái tính
(Mascarade de la fénimité)
Giấc mơ em mặc jupe hồng … thôi rồi Sài Gòn ơi!
Xin mượn lời thơ của Nguyên Sa:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Em cười tà áo bay trên
Đám mây ở dưới nỗi phiền muộn xa
Anh ngồi chỗ hẹn hôm qua
Đám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,
Giấc mơ mặc áo lụa vàng
Nơi anh nằm ngủ có hàng Thùy dương
                                                   (Nhẹ nhàng)
Trong khi đó thì những cậu con
trai cỡi xe Vespa, đời ED, đôi kính mầu đen, chiếc áo Montagu,
mầu xanh đậm rồ ga hay lượn uốn éo. Nếu Solex là con gái, thì
Vespa là con trai. Nếu Solex là con bọ ngựa thì Vespa là con bọ
hung. Solex là nữ tính, Vespa là nam tính.
Nếu con gái ăn quà thì con trai Bát phố. Bát phố phải chăng
là nói nhại từ tiếng Pháp battre le pavé? Thôi thì là gì cũng
được. Và xin mượn lại chữ nghĩa của nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàn
                                        … Từ xa phố chợ đến giờ                                                                                    Chân thôi bỏ lệ gõ bờ lộ quen
Bát phố là một thứ giải trí chiều
thứ bảy của con trai Sàigòn. Mà điều căn bản là có mặt. Làm gì,
bận bịu gì cũng bỏ đi Bonard bát phố. Sinh viên, học sinh các
lớp tú tài, lính tráng đi hành quân ở xa về, công chức các bộ,
các nha đều đi dạo phố, ngắm người hay rửa mắt. Mà phần lớn
bọn họ là độc thân, chưa có vợ con.. Nếu sang một tí thì vào
Givral ngồi, tàm tạm thì một ly nước mía Viễn Đông cũng xong.
Đi dạo phố trở thành một thói quen, một nếp sống của con trai
Sài gòn. Ngoài Sàigòn, tôi chỉ thấy ở Huế có sinh hoạt bát phố
tương tự. Nhưng ở Huế, số con gái đi dạo phổ kể là đông và đi
từng nhóm hai ba cô. Họ sợ bị bắt nạt chăng? Cô nào cũng có
chiếc nón không phải để che nắng, che mưa mà để che cái nhìn
trộm của con trai. Gái Huế đi dạo trên đường Trần Hưng Đạo
mới thật là một diễn hành phái tính. 10 lần ra Huế thì y như
rằng ra đi là để lại một cái gì?
Con gái biểu tượng nhất, cái Look
theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng,
găng tay trắng, cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng
mới được, mới con gái, mới trinh nữ, mới thanh khiết. Vạt áo
dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên phần đùi
trông cộn hẳn lên trên chiếc Vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô
solex chứng tỏ con nhà khá một tý, sang trọng và đài các.
Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái tính.
Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les femmes seraient faites
ainsi. Quyến rũ bằng chính thân xác mình.
Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh trở thành phụ nữ hơn.
La robe lui permettait de devenir plus féminine. Phải nói là
thời thượng và ấn tượng lắm. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt.
Ăn qùa vặt là rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt.. Khi cô nữ sinh
ăn quà thì tưởng là ăn quà thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái
cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó như chờ đợi một điều
gì đó. Điều mà Thị Nở đã chờ đợi từ tuổi 15, 16 thời con gái,
nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế.
Như cơn mưa mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc
này. Chí Phèo chỉ đến hoàn tất công việc chờ đợi ấy..
Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế.
Vespa Sài Gòn (thập niên 1960)
Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi dạo phố. Con trai đi dạo
phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một trình
diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để
nhận phần lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng.
Đó là cả một cái guồng máy của sự xuất hiện. L’engrenage
du paraitre .
Và cuối cùng, thú vui giải trí chung cho cả con trai lẫn con
gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để trai gái gặp
nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau.
Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình
của giới trẻ thời đó đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một
chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi mãi là như thế.
Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt tỉnh, như chấu ủ bếp
lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương
hoài ngàn năm.
Viết đến đây lại chợt nghĩ đến Nguyên Sa. Ông đã nói hộ cho
tuổi trẻ Sài gòn:
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành mạnh mà không thiếu
lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi gắm
nhắn nhe.
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
                                        Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc                                                                                              (Tuổi mười ba)
Nhưng may thay, mọi người Việt Nam, nhất là thanh niên,
giới trẻ, lúc bấy giờ đều có một giấc mơ là làm thế nào để có
một miền Nam phát triển và phú cường để đối địch với miền
Bắc.
Cafe Givral, Mở cửa từ năm 1950
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn
nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây
phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ
nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng
cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
Chúng tôi đã lớn lên từ đó, trở thành người hữu dụng cũng
từ đó.
Như lời Phạm Duy tỏ bày: ”Dưới thời Cộng Hòa thứ nhất, từ
khi chế độ nhà Ngô thành lập và tiến dần tới thời thịnh trị rồi
mạt vận, miền Nam, nếu chưa được là thiên đường của đông
đảo văn nghệ sĩ đi tìm tự do thì cũng là nơi đất lành chim đậu.
Một thế hệ văn nghệ sĩ mới đã thành hình và họat động dữ dội
bên những vị đàn anh di cư từ miền ngoài. Phòng trà, tiệm
bánh, quán nước như Kim Sơn, Mai Hương, La Pagode, Givral,
Brodard … là nơi không hẹn mà văn nghệ sĩ tới gặp nhau hằng
ngày”.
Trong 9 năm cầm quyền thời
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chỉ có 3 lần có những biến động
chính trị.. Nhưng chỉ riêng năm 1964, có 13 lần miền Nam rơi
vào những biến động có thể làm lung lay nền Cộng Hòa. Nói
như thế để thấy rằng sự ổn định chính trị nằm ở thời điểm nào.
Người nào không nhìn nhận những điều ấy thì chỉ thiệt thòi cho
chính họ thôi, bởi vì họ tự mình bôi xóa tuổi trẻ của chính họ..
Nhiều người đã bôi xóa như thế để chạy theo vài ảo tưởng chính
trị, hoặc nếu ở ngoại quốc thì chạy theo những xu hướng thiên
tả vốn chẳng dính dáng gì đến thực tế chiến tranh Việt Nam.
Phần tôi nghĩ rằng, chúng tôi không bước đi những bước đi đơn
độc.
Chúng tôi có bạn đồng hành, đồng trang lứa, có những người
lính, người sĩ quan VNCH cùng lớn lên ở đấy, đang xả thân
thay cho chúng tôi. Và cho dù cuối cùng để mất miền Nam thì
những giá trị tinh thần ấy vẫn còn đó.

                             PHAN NGUYÊN LUÂN thực hiện

No comments: