MỘT MẢNH TÌNH CHUNG THỦY
Hồ Thị Chỉ và duyên tình trái ngang với 2 vị vua Nguyễn
“Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự, Đầy vơi giọt lệ nước sông
Hương Quê người đành gởi thân trăm tuổiCuộc thế mong gì nợ bốn phương!”
(Thượng Tân Thị)
Mùa hè năm 1914 vua Duy
Tân lại ra nghỉ mát ở Cửa Tùng. Lần này triều đình chỉ định quan
thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần Hồ Đắc Trung theo hầu ngự.
Năm này vua cũng vừa bước lên tuổi mười bốn. Hai hôm trước khi đi, vua
nói với ông Trung:
-Năm nào đi nghỉ mát tôi cũng tắm, cũng
bơi, cũng nằm phơi nắng trên cát một mình thật buồn tẻ quá. Nghe nói
thầy có mấy người con trai cũng đang nghỉ hè, bảo họ đi chơi với tôi
cho có bạn được không?
Ông Trung ngập ngừng:
-Đa tạ hoàng thượng đã chiếu cố đến
đám trẻ của hạ thần. Chỉ sợ chúng quê mùa dốt nát chưa thông lễ
nghĩa lỡ xúc phạm oai trời hạ thần lại mang tội.
-Thầy ngại cho con ra tắm biển có thể
gặp chuyện nguy hiểm chứ gì? Chắc thầy chưa rõ Cửa Tùng là một bãi
biển đẹp, mát mẻ và yên bình nhất ở Trung Kỳ? Người Pháp vẫn mệnh
danh Cửa Tùng là Nữ hoàng của những bãi tắm (La Reine des plages) mà! Tắm
và nghỉ ngơi ở đó tốt cho sức khỏe lắm. Thầy yên chí đi!
-Vậy xin phép hoàng thượng cho hai con
trai của hạ thần là Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di cùng đi cho vui. Nếu
chúng vụng về sơ sót điều gì xin hoàng thượng lượng thứ.
-Không sao. Điềm với Di chắc xuýt xoát
tuổi tôi?
Vua Duy Tân
-Tâu vâng, chúng chỉ trội hơn hoàng
thượng một hai tuổi!
-Quá tốt! Kế Điềm với Di còn người nào nữa không?
-Tâu, còn hai đứa. Nhưng lại đều là con gái..
-Chắc các em đều còn nhỏ?
-Tâu vâng. Một lên mười, một mười hai.
-Như vậy đâu còn nhỏ lắm? Thầy nên cho hai em đi chơi luôn
để hai em vui chứ!Mọi thứ cần thiết tôi sẽ cho người lo giúp, thầy
khỏi bận tâm.
-Tạ ơn hoàng thượng!
Khi nghe ông Trung thuật lại ý
muốn của vua, mấy người con của ông đều vui mừng hớn hở. Chỉ
có bà Trung lộ vẻ lo lắng nói với chồng:
-Đám con mình chưa bao giờ đi tắm biển.
Ra đó lỡ gặp sóng gió bất thường hoặc rủi ro sa chân hụt cẳng ai lo
cho?
Hồ Đắc Điềm trấn an mẹ:
-Mẹ khỏi lo chuyện đó. Con biết biển
tắm Cửa Tùng không sâu và không bao giờ bị ảnh hưởng bởi các giòng
hải lưu nguy hiểm. Nó như nằm trong một cái vịnh nhỏ được hai rặng
đá ngầm thọc sâu ra biển là Mũi Si và Mũi Lai che chắn nên rất an toàn.
Những khi biển có gió bão các
tàu thuyền đánh cá còn có thể ghé vào neo ở đây để núp nữa mà! Bãi
biển này cũng mát mẻ hơn các bãi biển khác ngay cả thời gian những
cơn gió Lào gay gắt quạt lửa vào Quảng Trị hằng năm. Chính cánh
rừng Rú Lịnh ở cách đó không xa đã giúp nguồn khí mát ở đây luôn
được điều hòa. Mẹ cho anh em con đi một chuyến khi trở về mẹ sẽ thấy
đứa nào đứa nấy hồng hào khỏe mạnh lên hết cho coi!
Cả Hồ Đắc Di lẫn hai cô em đồng
loạt nói:
-Anh Điềm nói phải đó mẹ. Khí hậu ở
Cửa Tùng rất tốt. Đi chuyến này trở về chúng con khỏe mạnh lên hết
cho coi.
Thấy các con đều tha thiết muốn đi chơi, ông Trung quyết
định:
-Thôi, được rồi, thầy mẹ bằng lòng cho cả bốn đứa đi.
Nhưng đi với ngài ngự thì phải luôn giữ lễ, phải nói năng từ tốn,
không được ham vui mà ồn ào. Dù cho ngài ngự có vui vẻ, dễ dãi các
con cũng không được thừa dịp mà lơ đi khoảng cách giữa vua tôi. Nếu
không nghe lời thầy dặn, không phải chỉ các con mang lỗi phạm thượng
mà thầy mẹ cũng mang tội không biết dạy con. Phải nhớ kỹ lời thầy
dặn đấy nhé.
-Chúng con xin tuân lời thầy dặn!
***
Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã có
sẵn một hành cung ở Cửa Tùng, nơi người ta vẫn quen gọi là “tòa
Thừa Lương”, nôm na là tòa nhà để hóng mát. Tòa nhà này do viên Khâm
sứ Trung Kỳ Brière cho xây dựng từ năm 1896 để làm nhà nghỉ
mát cho nhân viên tòa Khâm. Năm 1907, người Pháp nghi ngờ
vua Thành Thái không trung thành với chính phủ Bảo hộ nên tìm cách
để truất phế ngài. Kế đó họ lập người con của ngài là Vĩnh San
mới 7 tuổi lên ngôi tức là vua Duy Tân. Về sau, nhận thấy vua
Duy Tân càng lớn càng lộ vẻ ưu thời mẫn thế như vua cha, người Pháp
lại đâm ra lo lắng. Họ tìm cách để dẫn dụ vị vua trẻ này
đi dần vào con đường vui chơi, hưởng thụ. Nhắm mục đích ấy, người
Pháp nhường lại tòa nhà nghỉ mát trên cho vua Duy Tân làm một hành
cung. Từ đó nhà nghỉ mát ấy được vua cho sắp xếp lại, trở thành
tòa Thừa Lương. Cứ mỗi mùa hè vua lại ra đó nghỉ mát một thời gian.
Lần đó vua Duy Tân cùng quan
thượng thư Hồ Đắc Trung đi Cửa Tùng bằng “xe điện”. Các thành phần
khác thì đi bằng ngựa hoặc xe ngựa. Khi bốn anh em Hồ Đắc Điềm đến
hành cung thì ông Trung đã có mặt sẵn để dẫn họ vào lạy chào vua.
-Muôn tâu, hạ thần xin dẫn đám tiện tử
vào lạy chào hoàng thượng!
Anh em Hồ Đắc Điềm toan quì xuống
lạy thì vua Duy Tân khoát tay:
-Cho miễn lạy. Vái chào là đủ rồi.
Các anh em là những người tôi mời đi chơi cho có bạn chứ không phải
người đi theo để phục dịch hầu hạ. Nếu việc gì cũng giữ lễ thì
còn gì là vui!
Vua lại tươi cười nhìn lướt qua
bốn người:
-Tôi mong chuyến đi chơi này sẽ làm mọi
người hài lòng. Hai anh tôi đã biết tên là anh Điềm và anh Di. Riêng
hai cô thì tôi chưa rõ!
Cô chị còn ngập ngừng thì cô em
đã chỉ vào cô chị đáp:
-Chị của em tên Hồ Thị Chỉ, em tên Hồ
Thị Hạnh!
-Xin chào mừng hai em. Chúc hai em sẽ có
những ngày rất vui.
Mọi người đều hớn hở lên tiếng
cảm ơn vị vua trẻ. Riêng Hồ Thị Chỉ đã tỏ ra xúc động hơn ai hết.
Đôi mắt nàng long lanh mở lớn nhưng lời cám ơn của nàng chỉ lí nhí
nghe không được rõ.
Hồ Thị Chỉ là con gái áp út
của ông Trung. Vốn bẩm thụ tính thông minh trời cho, lại sinh ra trong
một gia đình có truyền thống học vấn, được cha và các anh chăm sóc
việc học hành từ bé, mới hơn mười tuổi nàng đã khá rành cả chữ
Hán lẫn chữ Pháp. Năm ấy tuy mới mười hai tuổi nàng đã bắt đầu trổ
nét xuân thì, trông xinh xắn, dịu dàng rất dễ thương. Có lẽ vua Duy
Tân cũng cảm nhận điều đó ngay phút gặp gỡ đầu tiên.
Từ đó buổi sáng nào vua cũng cho
mời anh em Hồ Đắc Điềm cùng ra bãi biển chơi. Ngài vẫn gọi Điềm và
Di bằng anh, gọi Thị Chỉ và Thị Hạnh bằng em. Họ cùng nhau bơi lội,
cùng nhau nằm trên cát nhìn mây trời, cùng ngắm những đàn còng ùa
chạy lung tung trên bãi cát hoặc bơi dưới nước… Lúc nào vua cũng
chuyện trò thân mật, vui vẻ với anh em Điềm, Di. Thị Hạnh cũng
hay nói chuyện với vua. Riêng Thị Chỉ không được tự nhiên, rất ít
khi nói chuyện với vua. Nàng luôn tỏ ra rụt rè, ít tham gia vào các
cuộc vui chơi chung đó. Có lẽ vua cũng hiểu lý do nên cũng không ép,
không mời.
Một hôm Hồ Đắc Di hào hứng đề
nghị:
-Muôn tâu, hôm nay mình chơi thi bắt còng
xem ai bắt giỏi hơn cho vui, ngài ngự bằng lòng không?
Vua tươi cười nói:
-Ừ, thi thì thi, như vậy càng thêm vui! Tôi
sẽ có thưởng cho ai bắt giỏi nhất.
Thế rồi mỗi người tự kiếm một
vật dụng để đựng còng. Khi cuộc thi đang nhộn nhịp, mọi người dần
để ý thấy vua bắt được con nào lại thả con nấy. Thị Hạnh ngạc nhiên
hỏi vua:
-Sao ngài ngự bắt được con nào lại thả
con nấy vậy?
-Bắt được con nào đếm xong thả ngay chứ
giữ lâu khô nước chúng có thể chết mất. Chúng vô tội, mình không nên
để chúng chết oan. Thấy con nào thoát thân được cũng tất tả chạy
trốn phóng xuống nước bơi tung tăng như thế cũng đủ vui rồi.
Thế là mọi người bắt chước vua
thả hết số còng đã bắt được.
Vua lại quay sang nói với Điềm và
Di:
-Ai bắt bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta
cũng sẽ khổ sở vì khi mất tự do là mất tất cả!
Nói xong vua thở dài, nét mặt
ngài bỗng trở nên ủ dột. Anh em Điềm, Di phải nói chuyện khỏa lấp
một hồi vua mới vui vẻ trở lại với cuộc chơi.
Tối hôm đó anh em Điềm kể lại
chuyện ấy cho cha nghe. Ông Trung nói:
-Tinh thần yêu nước của ngài ngự rất
cao. Ngài muốn thoát khỏi sự kềm kẹp của chính phủ Bảo hộ. Đã
nhiều lần ngài hỏi thầy “Thầy nghĩ sao về việc người Pháp đô
hộ ta?”. Thầy chỉ biết nói với ngài “Mình đang bị trị biết
làm sao được! Xin hoàng thượng thận trọng, cố gắng học hành,
đường còn dài, còn nhiều vận hội mới”.
Ngài không phản đối nhưng có vẻ
không hài lòng. Một viên thị vệ kể với thầy, có một lần vua tự ra
vườn cuốc đất trồng hoa, tay chân vua lấm đất cả. Khi ngài trồng xong,
y bưng chậu đến cho ngài rửa tay.
Bất ngờ ngài hỏi y “Tay
nhớp lấy nước để rửa, thế nước nhớp lấy gì để rửa đây?” .
Viên thị vệ ngẩn ngơ chưa biết
trả lời sao thì ngài tiếp “Nước nhớp phải lấy máu mà rửa! Biết
chưa?”.
Lại một lần ngài đi câu, có quan
thượng thư Nguyễn Hữu Bài theo hầu, ngài bỗng cảm thán đọc “Ngồi
trên nước khôn ngăn được nước, Trót buông câu đã lỡ phải lần”, rồi
ngài bảo ông Bài đối lại. Qua một lát suy nghĩ, ông Bài đối: “Ngẫm
việc đời mà ngán cho đời, Đành nhắm mắt tới đâu hay đó!”.
Ngài lắc đầu tỏ vẻ không bằng
lòng. Ngài luôn bị ray rứt về số phận của đất nước. Thỉnh thoảng
ngài đem tâm sự dò ý các quan nhưng chẳng có ai dám biểu lộ đồng
tình với ngài. Ai cũng biết, trong số quan lại của Nam triều không
thiếu gì tay chân của chính phủ Bảo hộ Pháp, họ lúc nào cũng sẵn
sàng lập công để được thăng tiến! Vì cảm thấy mình quá cô đơn,
ngài hay nổi nóng bất thường. Có lần ngài hét lớn “Các
quan không có ai chịu nghe lời tôi cả. Tôi chỉ là một ông vua làm vì!”.
Hồ Đắc Di nghe đến đó bất giác
thốt lên:
-Thật tội nghiệp cho ngài quá. Không
ngờ nỗi khổ tâm của ngài to lớn đến thế! Có khi nào bức chí
quá ngài lại nổi điên như vua cha Thành Thái không thầy?
Ông Trung hơi cau mày:
-Con cũng nghĩ là vua Thành Thái nổi
điên ư? Chuyện đó rất khó nói. Sau này lớn lên các con sẽ dần hiểu
được sự thật. Thầy cũng mong cái gương của vua Thành Thái sẽ giúp
Đức Kim Thượng gắng nhẫn nhục để giữ mình. Chính phủ Bảo hộ lúc
nào cũng dòm ngó các hành vi của ngài chứ họ chẳng bỏ sót đâu!
Hồ Đắc Di lại hỏi:
-Thầy nghĩ những lời ngài nói trong khi
tức giận lại lọt đến tai chính phủ Bảo hộ?
-Biết đâu được! Quan hay lính cũng
có hạng này hạng khác… Ngài ngự còn quá trẻ nên dễ có lúc không
kiềm chế được tánh nóng nảy của mình. Vì tánh khí đó, ngài đã
phải chịu ngậm cay nuốt đắng một lần rồi!
-Chuyện ra sao thầy kể luôn cho tụi con nghe đi!
-Cách đây một hai năm thôi, một hôm
nghe tin Khâm sứ Mahé đem người lên đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng
ngọc, ngài liền thân hành lên đó để ngăn chận hành vi ngang ngược ấy.
Nhưng ngài lên tới nơi thì đã muộn, việc đã xong xuôi. Ngài vô cùng
phẫn nộ. Khi đi ra cửa Vụ Khiêm Môn, ngài gặp vị thầy dạy ngài là
ông Cao Xuân Dục từ Đại
Nội mới lên, ngài kêu: “Thầy
ơi, hồi cha tôi còn tại vị thì người ta không dám làm như vậy. Nay họ
đặt tôi lên làm ấu chúa để đào mả, phá nhà!”.
Ông Cao Xuân Dục chỉ biết
khuyên: “Biết vậy thì Đức Kim Thượng nên gắng học!”. “
Thầy nói tôi nghe cũng phải. Nay
cha tôi đã ở xa. Tôi nguyện gắng học và xin thầy giúp cho!”. Sau
đó vua tự mình viết một lá thư cho chính phủ Pháp. Ngài trình bày
rõ sự kiện đã xảy ra và đề nghị chính phủ Pháp khiển trách, hạch
tội mấy viên quan Bảo hộ ở Việt Nam. Ngài lại nhờ viên Toàn quyền Đông
Dương chuyển thư giúp. Nhưng khi đọc thư xong, thay vì chuyển giúp, viên
Toàn quyền lại thân hành đem lá thư này vào cung Diên Thọ trao cho bà
Đích xem. Bà Đích liền đòi ngài vào cung Diên Thọ, bắt ngài phải xin
lỗi viên Toàn quyền trước mặt ông ta và đại thần Nguyễn Thân. Không
thể cãi lệnh mẹ đích, ngài phải cắn răng mà thi hành!
Thị Chỉ vẫn chăm chú lắng nghe
cha kể chuyện từ đầu, giờ bỗng thở dài:
-Không ngờ ngài ngự lại khổ sở đến thế!
Thị Hạnh cũng lên tiếng:
-Bà Đích là mẹ của ngài ngự hở thầy?
-Bà Đích tức tên Nguyễn Gia Thị Anh, con gái ông
Nguyền Thân, vị đại thần nổi tiếng đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong
nước, là mẹ đích chứ không phải là mẹ đẻ của ngài ngự. Gọi là mẹ
đích vì bà là Hoàng quí phi tức là vợ chính của vua Thành Thái.
Tất cả những người con khác của vua Thành Thái đều phải gọi bà là
mẹ đích. Còn mẹ đẻ của ngài ngự là bà Tài nhân Nguyễn Thị Định,
vợ thứ của vua Thành Thái. Cả hai bà này ở trong cung, đều có quyền
quyết định mọi việc trong gia đình nhà vua, người ta vẫn quen
gọi là “Lưỡng tôn cung”.
Hồ Đắc Điềm cũng thở dài:
-Hóa ra làm vua một nước bị lệ thuộc
cũng khổ quá!
-Thầy rất thông cảm cho hoàn cảnh của ngài nhưng biết
làm sao bây giờ? Vậy, khi chuyện vãn với ngài, nếu ngài có bắt qua
chuyện quốc sự, các con phải tìm cách nói lảng sang chuyện khác ngay
để ngài khỏi buồn khỏi ức. Phẫn chí quá ngài có thể nói lỡ lời.
Giữ gìn cho ngài cũng là giữ gìn cho chính mình! Các con phải
nhớ đấy!
Cuộc đi nghỉ mát mùa hè ở Cửa
Tùng rồi cũng qua nhanh. Khi sắp giã từ, vua Duy Tân với anh em họ Hồ
đều lộ vẻ bịn rịn nhau lắm. Nhất là Thị Chỉ, nàng không nói gì mà
cứ rưng rưng nước mắt.
Vua thấy thế nói khẽ với Thị
Hạnh:
-Dỗ chị đi em. Sang năm chúng ta sẽ gặp
lại!
***
Sau thời gian cho các con đi nghỉ
mát với chồng về, bà Trung để ý thấy Thị Chỉ có vẻ hơi khác
thường. Nàng ít nói, ít đùa giỡn với cô em Thị Hạnh như trước mà
hay ngồi trầm ngâm một mình. Thỉnh thoảng nàng lại ngâm nho nhỏ vài
câu thơ, giọng rất buồn.
Một hôm bà Trung gọi nàng lại
hỏi:
-Đi chơi về mệt lắm sao mà thấy con cứ
thẫn thờ ra thế? Có gì vui kể mẹ nghe với nào.
-Dạ đâu có mệt, vui lắm chứ mẹ. Ngày
nào cũng bắt còng, bơi lội, phơi nắng…
-Vua cũng chơi vậy sao? Ngài có hay nói chuyện với anh em
con không?
-Dạ có. Nhưng ngài chỉ nói chuyện với anh Điềm, anh Di
và Hạnh chứ rất ít khi nói chuyện với con.
Bà Trung cười:
-Ngài không thèm nói chuyện với con à? Sao vậy?
Hồ Thị Chỉ tỏ vẻ bẽn lẽn:
-Đâu phải vậy. Nhưng con đâu có chuyện
gì để nói?
-Vậy con có nhận xét gì đặc biệt về ngài ngự không?
-Điểm đặc biệt ư? Nếu nói về điểm đặc biệt của một
ông vua thì con thấy ngài có mấy điểm rất khác thường, hoàn toàn
không giống ở bất cứ một ông vua nào khác mà con đã được đọc qua
trong sách sử ký.
Bà Trung trố mắt ngạc nhiên:
-Ủa, con đã đọc về nhiều vị vua trong
sách sử ký? Con thấy ngài khác biệt với những vị vua ấy ở những
điểm nào?
-Điểm con thấy rõ nhất ở ngài là đức tính rất giản
dị, khiêm tốn. Mẹ biết không? Ngài luôn gọi anh Điềm, anh Di bằng anh,
gọi con và Hạnh bằng em như dân thường gọi nhau.
Trong một lần khi đi chơi ngài đã
thành thật tâm sự: “Thời gian này đi chơi có mấy anh em tôi
thấy vui vẻ thoải mái quá! Gần gũi mãi với mấy cụ đại thần
tuy học được nhiều điều hay nhưng cũng có lúc ngột quá chừng, nhiều
thắc mắc của mình khó bày tỏ với các cụ quá! Các anh thấy
thế nào?”.
Anh Điềm anh Di đều nói: “Chúng
tôi còn dại, chỉ biết lo học, chưa dám bàn đến chuyện người lớn”.
“Vậy các anh cho tôi là người lớn rồi sao?”. “Muôn
tâu, Ngài Ngự tuy tuổi nhỏ nhưng địa vị và tâm tư đều lớn quá có ai
dám sánh? Chúng tôi đâu dám luận bàn!”.
Vua cười: “Các anh đừng lầm, người có
thực tài không cần có địa vị, người có địa vị chưa chắc có tài.
Như tôi vì con vua nên lại làm vua chứ tài gì?”.
Mẹ thấy đó, các ông vua khác nghe
lời tâng bốc thì vui mừng, họ còn tìm cách khiến người khác thần
thánh hóa mình lên nữa. Còn ngài thì không, lại tự nhận mình chưa
chắc có tài, chỉ nhờ gốc là con vua nên được làm vua! Chưa tin
mình có thực tài tất nhiên ngài phải luôn cố gắng học hỏi. Không
nghe lời tán tụng, tâng bốc tất nhiên không ai có thể dùng lối mê
hoặc, dua mị để lung lạc được. Một ông vua như thế chắc hẳn không
phải là một ông vua tầm thường! Đó là những điểm khác thường
của ngài vậy!
Nghe Thị Chỉ nhận xét về vua Duy
Tân như vậy bà Trung rất mừng. Bà không ngờ lối suy nghĩ của đứa con
gái mình lại có vẻ trưởng thành đến thế. Vậy đối với nàng bà đâu
có gì đáng lo nữa! Chắc hẳn là nàng có phần si tình đấy, nhưng
không sao.
Nghĩ đến đó bà chợt thốt lên:
-Đáng tiếc!
-Mẹ nói cái gì đáng tiếc?
-Ngài ngự hẳn là một minh quân đấy. Đáng tiếc là ngài
đã không gặp được thời. Cái gương của vua cha còn sờ sờ ra đó. E
rằng chính phủ Bảo hộ khó để cho ngài toại chí. Mẹ nghĩ rồi đây
ngài sẽ phải gặp nhiều gian truân…
Ngay hôm ấy bà thăm dò ý chồng:
-Này ông, từ sau cuộc đi chơi ở Cửa
Tùng về, hình như con Chỉ nó thay đổi khá nhiều đó. Nó hay thở dài
và cũng hay ngâm truyện Kiều nữa. Tôi cảm thấy lo lo về những dấu
hiệu ấy.
-Ồ, có gì lạ đâu mà lo! Nó đang ở tuổi dậy thì,
gái thở dài trai nằm sấp vẫn là chuyện thường. Bà hay gần gũi nó,
khuyên nhủ khéo khéo sao cho nó khỏi lơ là việc học hành là được!
-Theo ông có phải nó phải lòng với nhà vua không?
-Bà căn cứ vào đâu để nói như thế?
-Thỉnh thoảng tôi lại nghe nó ngâm thơ Kiều. Tiêu biểu là
hai câu “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay
không?”, hoặc “Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có
vuông tròn mà hay?”. Đó không phải cái giọng tương tư thì còn là
gì nữa? Thời gian này nó có gặp ai đâu ngoài ngài ngự?
-Cũng có lý! Ngài ngự cư xử với đám con mình rất
thân mật, nếu con Chỉ phải lòng ngài thì cũng đúng thôi. Theo tôi
biết thì ngài cũng mến nó lắm.. Xứng đôi quá đi chứ. Bà gắng khuyên
răn thúc đẩy nó cứ lo học hành đi đã rồi chuyện tốt lành sẽ đến
thôi.
-Ông thương con gái mà nghĩ vậy nhưng hình như ông chẳng
để ý đến một điều…
-Điều gì?
-Ngài ngự là người rất có lòng với đất nước nhưng còn
quá trẻ, liệu ngài có tự kiềm chế để giữ mình được không? Ông thấy
cái gương vua Thành Thái chứ? Nếu để con mình vướng vô chuyện đó tôi
nghĩ sớm muộn nó cũng sẽ khổ theo…
-Nhưng biết làm sao bây giờ?
***
Thấm thoắt kỳ nghỉ hè 1915 đã
gần tới. Theo thư thăm gia đình mới nhất, anh em Điềm, Di đang học ở
Hà Nội cho biết chỉ trong vòng một tháng nữa họ sẽ về sum họp với
gia đình. Điềm, Di cũng cho biết họ cũng sẽ có một món quà rất đặc
biệt dành cho hai em gái. Vì vậy, Thị Chỉ và Thị Hạnh luôn ngóng
chờ hai anh. Đối với Thị Chỉ, thật ra nàng không hẳn nôn nóng vì
thương nhớ hay muốn biết “món quà rất đặc biệt” hai ông anh đã hứa
tặng mà là nôn nóng đợi một kỳ đi nghỉ mát như năm ngoái. Thị Chỉ
đã cẩn thận ngầm chuẩn bị những đồ trang sức cá nhân dành cho thời
gian đi chơi sắp đến.
Đã nhiều lần nàng rụt rè hỏi
nhỏ Thị Hạnh:
-Ngài ngự có dặn em năm sau chúng ta sẽ
gặp lại phải không?
Thị Hạnh hiểu ý, cười nguýt yêu cô chị:
-Đúng rồi, không lẽ em phịa ra thế sao. Ngài ngự còn
bảo em dỗ chị đừng khóc nữa mà. Sao chị cứ hỏi hoài chuyện đó
vậy?
-Có khi nào ngài ngự quên đi không? Hoặc ngài ngự bận
công việc gì mà không đi nghỉ mát nữa? Cũng có thể ngài ngự gọi vị
thượng thư khác theo chầu hầu thay thế thân phụ mình.
Thị Hạnh nhí nhảnh:
– Chị sao hay lo hảo quá! Quân bất
hí ngôn mà! Ngài ngự đã hứa lẽ nào lại quên!
Thị Chỉ cười bẽn lẽn:
-Chị cũng nói chừng chừng vậy thôi.
Mấy ngày sau thì anh em Hồ Đắc
Điềm từ Hà Nội về. Thị Hạnh mừng quá, hỏi ngay đến món quà đặc
biệt. Khi Điềm và Di mở quà ra, Thị Hạnh mừng rỡ reo ầm lên, Thị
Chỉ cũng sung sướng đến lặng người. Món quà đặc biệt của hai cô
chính là hai bộ đồ tắm tân thời! Trước vẻ sung sướng của hai cô
em gái, anh em Điềm, Di cũng hỉ hả nói cười.
Bà Trung lúc ấy đang bận tay nhưng
thấy các con vui vẻ quá cũng tạm bỏ việc đến xem:
-Quà gì mà các con vui sướng đến thế?
Cả bốn anh em đều hướng về mẹ,
Điềm khoe:
-Mẹ thấy hai bộ đồ tắm này có nhất
không? Tây cũng phải hạng sang chứ hạng xoàng cũng không dám sắm đâu!
Bà Trung cầm từng bộ lên xem rồi
nói:
-Đồ này thấy sang trọng, tân thời thật,
hai con thương em sắm cho em như vậy quả thật có lòng! Nhưng có
điều mẹ quên dặn các con, mình là người Việt phải gắng mà giữ lấy
nề nếp văn hóa Việt, không nên đua đòi với Tây làm chi để người ta coi
thường. Mẹ nghĩ năm nay con Chỉ cũng đã lớn rồi, không nên theo mấy
anh đi nghỉ ở Cửa Tùng nữa.
Nói xong, bà lại tiếp tục đi lo
công việc. Thị Chỉ nghe mẹ nói vậy đâm hoảng. Vẻ hớn hở trên gương
mặt nàng phút chốc tan biến hết. Đôi mắt nàng bỗng rưng rưng lệ.
Anh em Điềm, Di thấy vậy vội an
ủi em:
-Mẹ nói rứa thôi chứ không chi đâu. Bọn
anh sẽ xin mẹ cho em.
-Em cũng sẽ xin mẹ cho chị đi – Thị Hạnh tiểp lời.
Lời hứa sẽ xin với mẹ của hai
anh và đứa em gái không làm cho Thị Chỉ yên lòng mấy. Nàng vốn biết
mẹ mình tuy rất thương con nhưng cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề
giáo dục. Hình như đã mất hết cả hứng thú, nàng cám ơn hai anh rồi
tiu nghỉu mang gói “món quà đặc biệt” đem cất.
***
Hôm ấy, trong bữa cơm tối, ông
Trung nói:
-Hoàng thượng vừa cho biết tuần sau sẽ
đi nghỉ mát ở Cửa Tùng. Thầy cũng được cử theo hầu ngài. Các con
cũng được ngài cho phép cùng đi nghỉ như năm ngoái. Khác một điều là
con Chỉ năm nay đã lớn, đi chơi không tiện. Ý mẹ muốn con Chỉ phải ở
nhà với mẹ.
Thị Chỉ nghe thế liền gục mặt
xuống bàn khóc ấm ức. Mấy anh em đều quay lại nhỏ to năn nỉ với bà
Trung. Ông Trung cũng nhìn con gái thông cảm nhưng bà Trung lắc đầu
nói:
-Ông cũng muốn cho nó đi hả? Không chịu
nghe tôi sau này có chuyện gì ông đừng bảo tại tôi không biết dạy con
đó nghe!
Ông Trung nói với Thị Chỉ:
-Được rồi Chỉ! Con không nên trái ý
khiến mẹ buồn!
Thị Chỉ liền bưng mặt đứng dậy
bỏ chạy vào phòng riêng…
Liên tiếp mấy ngày sau đó Thị
Chỉ đã bỏ ăn bỏ ngủ và khóc sưng cả mắt. Anh em Điềm, Di cũng hết
sức năn nỉ với bà Trung. Nhưng bà vẫn nhất định không đổi ý.
Hôm gặp lại ba anh em họ Hồ ở
Cửa Tùng, vua ngạc nhiên hỏi:
-Sao thiếu mất một người?
Thị Hạnh liều tâu:
-Mẹ chúng tôi bắt chị ấy ở nhà. Chị
ấy khóc quá.
Vua có vẻ buồn:
-Tội nghiệp chị ấy quá.
***
Sau kỳ nghỉ mát không bao lâu vua
cho thị vệ đến tư dinh Hồ thượng thư xin hai tấm hình của tiểu thư
Thị Chỉ đem vào Nội để “Lưỡng tôn cung” xem mặt. Cả nhà ông Trung rộn
lên kẻ vui mừng người lo âu.
Ông Trung cười mà trấn an vợ:
-Đó là cái diễm phúc to lớn cả vạn
nhà mơ ước không được, bà còn suy nghĩ gì nữa?
-Biết vậy, nhưng tôi thương con Chỉ quá. Hình như linh
tính báo cho tôi biết có điều gì không hay trong cuộc tình duyên của
nó…
Ông Trung cau mặt:
-Sao nói gở vậy? Bà không nên nghĩ như
thế nữa.
Một tuần sau “Lưỡng tôn cung” cho
đòi vợ chồng ông Trung vào chầu để bàn định sắp xếp về lễ hỏi và
lễ nạp phi. Sau đó sứ vua đệ ra nhà Hồ thượng thư một đôi bông
tai và một đôi vòng vàng để làm lễ hỏi. Vợ chồng Hồ thượng thư ra
quì làm lễ bái nhận. Thị Chỉ cũng ra quì lạy tạ ơn vua đã chiếu
cố.
Gần cuối năm 1915, khi chỉ
còn hai tháng nữa là đến ngày làm lễ nạp phi, vua Duy Tân đột ngột
triệu ông Trung vào gặp riêng để cho biết ngài đã quyết định từ hôn.
Quá kinh ngạc, ông Trung xin ngài cho biết lý do nhưng ngài chỉ nói “Thầy
cứ về đi, rồi thầy sẽ rõ”. Không biết làm sao hơn, ông Trung đành trở
về báo tin không hay cho gia đình.
Tiểu thư Thị Chỉ đã bỏ ăn bỏ
ngủ, khóc ngày khóc đêm cả một thời gian khá dài. Cả nhà ông Trung
phải thay nhau an ủi, khuyên nhủ để giúp nàng giảm bớt nỗi đau buồn.
Họ phải luôn canh chừng nàng vì sợ dại khi thất vọng quá nàng có
thể nghĩ quấy làm liều…
Hai tháng sau triều đình vẫn tổ
chức lễ nạp phi cho vua Duy Tân như đã dự định, nhưng bà phi này là
tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái trưởng của quan Phụ đạo Mai Khắc Đôn,
thầy học của vua. Sự việc này đã khiến một số người biết chuyện
ngầm cười nhà vua cũng kén cá chọn canh, không trọng chữ “quân bất
hí ngôn”. Một số khác suy đoán có thể gia đình ông Trung có vấn đề
gì khiến vua không bằng lòng. Riêng tiểu thư Thị Chỉ cũng bắt đầu
nẩy sinh ý định gởi thân vào cửa thiền.
***
Đêm mồng 3 rạng
mồng 4 năm 1916 ở Huế đã xảy ra một biến cố quan
trọng: vua Duy Tân bí mật rời hoàng cung để tham gia một cuộc
khởi nghĩa chống Pháp. Nhưng việc lớn không thành, ngày mồng 6 tháng 5 vua
Duy Tân bị bắt đưa về giữ ở Tam Tòa một thời gian rồi sau đó đưa qua
đồn Mang Cá. Những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa như Thái Phiên,
Trần Cao Vân cũng bị bắt đem nhốt vào lao Thừa Thiên. Hai ông này biết
chắc cuộc đời mình coi như đã yên, không một chút băn khoăn hối tiếc.
Hai ông chỉ còn ưu tư về số phận của vị vua thiếu niên anh hùng! Họ
muốn tìm cách để cứu sinh mạng vị vua yêu nước ấy. Với tinh thần
đó, hai ông đã viết tờ tự thú nhận hết mọi trách nhiệm về âm mưu
tổ chức cuộc khởi nghĩa về mình. Ông Trần Cao Vân còn nghĩ thêm cách
cầu cứu với một viên quan có thế lực trong triều. Đó là ông Hồ Đắc
Trung, đương chức thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần. Ông Vân
đã dùng cuốn giấy quyến viết một lá thư bày tỏ nguyện vọng tha
thiết muốn cứu vua lén gởi cho ông Trung.
Trong thư có hai câu đối:
“Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng
lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt!
Trời còn đó! Đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn
đó! Mong cho Thánh thượng sinh toàn”.
Nhưng không hiểu người chuyển thư
giúp lớ ngớ làm sao đó đã khiến lá thư lọt vào tay người Pháp. Thế
là ông Hồ Đắc Trung bị người Pháp bắt giữ ở tòa Khâm để điều tra.
May người Pháp không tìm được bằng chứng nào về sự liên hệ giữa đám
khởi loạn với ông Trung nên mấy hôm sau họ thả ông ra. Khi ông Trung trở
về, cả nhà xiết bao vui mừng, xúm lại hỏi han ríu rít. Bà Trung
nói:
-Thật phước đức ông bà, mấy ngày cả
nhà ăn ngủ không yên!
Ông Trung cười ra vẻ tự tin:
-Mình cứ ngay thẳng mà sống tự nhiên
gặp chuyện lành!
Thị Chỉ sau mấy phút vui mừng
lại lộ vẻ lo lắng:
-Thưa thầy, còn tình trạng ngài ngự ra
sao? Liệu người Pháp đối xử với ngài thế nào?
Bà Trung cũng tỏ vẻ băn khoăn:
-Nghe chính phủ Bảo hộ rất giận dữ vì
chuyện này. Trước đây vua Thành Thái chỉ bị ghép tội “dở hơi” thôi
mà còn bị đưa đi an trí ở Vũng Tàu, nay vua Duy Tân phạm tội “nổi
loạn” chắc khó thoát khỏi án tử.
Thị Chỉ nghe mẹ nói thế bỗng
khóc oà:
-Nếu ngài có mệnh hệ nào e con cũng
không sống nổi…
Ông Trung sầm mặt suy tư. Bà Trung
dỗ con gái:
-Con chớ nghĩ vậy. Việc đó ngoài tầm
tay của người Việt mình. Dù sao ngài cũng đã từ hôn, con đâu có lỗi
gì với ngài. Con phải quên chuyện đó đi mà sống mới được.
Thị Chỉ sụt sùi nói:
-Làm sao con có thể vô tình với ngài được? Chính vì
thương, vì nghĩ đến gia đình mình ngài mới từ hôn chứ đâu phải ngài
ruồng rẫy con! Chuyện xảy ra vừa qua đã làm sáng tỏ tấm lòng
cao cả của ngài, gia đình mình phải biết ơn ngài mới phải chứ!
Ông Trung an ủi Thị Chỉ:
-Con có lòng với ngài như thế là đúng.
Rõ ràng ngài đã ăn ở rất có hậu với gia đình ta. Thầy cũng không
thể làm ngơ trước cơn hoạn nạn của ngài đâu. Ở Trung Kỳ, những vụ
án liên hệ đến người Việt chính phủ Bảo hộ thường giao cho Nam triều
xử trước. Sau đó chính phủ Bảo hộ sẽ quyết định y án hay xử lại.
Bình thường, với chức vụ của thầy, thầy sẽ được giữ một chân trong
hội đồng xét xử. Vì nghĩ vậy nên ông Trần Cao Vân đã lén gởi một
lá thư nhờ thầy tìm cách cứu mạng vua. Ông ấy từng quen biết và tin
tưởng thầy nên mới dám làm liều như thế.
Không ngờ lá thư đó đã gây nên chuyện rắc rối cho thầy.
Bây giờ chưa chắc thầy đã được dự vào hội đồng nghị án. Nếu không
bị cho ra rìa, thầy nguyện sẽ hết lòng che chở cho ngài.
-Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, kính xin ngài phù hộ cho
thầy con không gặp trở ngại để cứu giúp nhà vua.
Hôm sau ông Trung trở lại Cơ Mật
Viện. Ông vui mừng biết mình không bị tước quyền nhưng khi biết tin
viên tân Khâm sứ Pháp Le Marchant de Trigon buộc Nam triều phải lên án
vua Duy Tân thật nặng ông không khỏi giật mình. Viên Khâm sứ này muốn
xử tử vua Duy Tân để làm gương cho các vị vua kế tiếp. Thế là toàn
bộ Cơ Mật Viện phải họp ba ngày liên tiếp để thảo luận vấn
đề. Nhờ đa số thành viên Cơ Mật Viện đều là trung thần nên họ
cố viện mọi lý lẽ thuận lợi bào chữa để cứu vua.
Cuối cùng Cơ Mật Viện đã ủy
nhiệm ông Trung soạn thảo một bản án với nội dung như sau:
“Vua Duy Tân còn vị thành niên, tuy
rất mực thông minh song còn cạn nghĩ, nên dễ bị bọn phiến loạn lắm
mưu mô quỷ quyệt lung lạc bằng cách kích thích lòng ái quốc mà nghe
theo chúng. Nếu ở vào tuổi trưởng thành thì tội ấy rất nặng, song
ở tuổi vị thành niên, thiếu quân không đáng trách mà là đáng thương
tình.
“Vả lại, cuộc khởi loạn chưa
bùng nổ thực sự nên chưa gây một mảy may thiệt hại cho tài sản và
tánh mạng của người Pháp ở kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh khác ở
miền Trung. Mặt khác, nhân dân Việt Nam rất mến thương nhà vua, thì
nay, nếu lên án “tử hình” ngài, e không khỏi gây ra mầm mống rối loạn
trong dân chúng, một điều mà cả Bảo hộ lẫn Nam triều chúng ta nên
hết sức tránh trong lúc này – lúc mà mẫu quốc đang gặp khó khăn
trong cuộc đương đầu với quân xâm lăng Đức ở trời Âu.
“Luận về tội thì quả thật thiếu
quân có tội đối với chính phủ Bảo hộ, nhưng đối với Nam triều, nhất
là đối với nhân dân Việt Nam mà xưa nay ngài vẫn tỏ lòng thương yêu,
ngài không có tội gì hết.
“Vì các lẽ trên, tưởng cần tỏ ra
khoan hồng đối với vị thiếu quân mà để cho ngài được tự do trở về
với danh vị “hoàng tử” như trước. Như vậy, chẳng những đã hợp tình
hợp lý mà chính phủ Bảo hộ còn được tiếng khoan dung và đại lượng,
dân chúng ắt sẽ khâm phục và thỏa mãn.
“Còn đối với bọn phiến loạn chủ
mưu và chúc sử nhà vua thì nên lên án nặng tối đa để làm gương”.
Chính phủ Bảo hộ đã đồng ý với
tinh thần bản án. Nhân dịp Toàn quyền Eugène Charles vào Huế, Tôn Nhơn
Phủ và Cơ Mật Viện đề nghị truất phế vua Duy Tân và tôn hoàng thân
Bửu Đảo, con trưởng vua Đồng Khánh lên ngôi. Ba ngày sau chính phủ
Pháp chuẩn y đề nghị đó và quyết định đày “Hoàng tử Vĩnh San” cùng
Phụ hoàng Thành Thái sang đảo Réunion ở châu Phi.
Ngày 17/5/1916 hoàng thân
Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định. Cũng ngày này, các
lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề,
Nguyễn Quang Siêu bị đem chém ở Cống Chém (làng An Hòa).
*
Ngày 2/7/1916
“Hoàng tử Vĩnh San” biệt ly xứ Huế đi Vũng Tàu để rồi ngày 3/11/1916
ngài vĩnh viễn xa rời tổ quốc sống cuộc sống lưu đày trong sự thương
tiếc, kính nể của toàn dân Việt Nam. Hai mươi chín năm sau ngài qua
đời ở quê người vì một tai nạn.
*
Sau khi vua Duy
Tân đã bị lưu đày, tiểu thư Thị Chỉ ngày càng khô héo. Có một ông
bác sĩ trẻ muốn hỏi nàng làm vợ, gia đình cũng muốn gả, nhưng nàng
một mực từ chối. Nàng thề không lấy ai nữa mà chỉ muốn đi tu. Sau
cùng ông bà Trung khuyên:
-Được rồi, thầy
mẹ sẽ giúp con toại nguyện. Tu hành trước để giác ngộ bản thân, sau
để cứu độ chúng sinh cũng là việc rất tốt. Nhưng trước khi đi tu,
thầy mẹ muốn con có được một mớ kiến thức vững vàng để việc tu
học chóng tiến bộ hơn. Vậy, con nên tiếp tục học hành một thời gian
nữa. Khi con lên mười tám, thầy mẹ sẽ chính thức đưa con vào chùa.
Nghe thầy mẹ khẩn
khoản đề nghị như vậy, Thị Chỉ hết sức áy náy. Hóa ra nàng đã làm
phiền thầy mẹ mình nhiều đến thế. Nàng rưng rưng nước mắt thưa:
-Con xin lỗi
đã làm thầy mẹ buồn. Nay con xin tuân lời thầy mẹ dạy bảo. Chỉ mong
thầy mẹ thương con mà cho con được toại nguyện như thầy mẹ đã hứa.
Vợ chồng ông
Trung vui vẻ:
-Ừ, Thầy mẹ
đã hứa thì thầy mẹ giữ lời chứ!
Thế rồi nàng
cố gắng gạt bỏ mọi ưu phiền để chuyên tâm tiếp tục học hành. Mọi
sinh hoạt của nàng cũng dần trở lại bình thường. Tuổi con gái vừa
đến độ mãn khai đã khiến nàng trở nên xinh đẹp mặn mà lạ lùng.
*
Sau khi lên
ngôi, vua Khải Định thi hành chính sách đẩy lùi ảnh hưởng Hán học
trong công cuộc trị dân như ý muốn của người Pháp. Khoa thi Hương năm 1915
đã là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở Bắc kỳ. Ở Trung kỳ cũng đã
được ấn định khoa thi Hương cuối cùng sẽ tổ chức năm 1918 và khoa thi Hội
cuối cùng sẽ tổ chức năm 1919. Muốn đẩy lùi Hán học thì phải phát
triển Tây học và Quốc học để thay thế.
Lúc bấy giờ
ở Huế, bậc trung học chỉ mới có một trường Quốc Học nhưng lại chỉ
dành cho nam sinh. Nữ giới vẫn chưa có môi trường thuận tiện để phát
triển học vấn, tài năng. Đó cũng là một nỗi trăn trở lớn của những
người có lòng. Về sau, với sự đồng ý của toàn quyền Albert Sarraut,
vua Khải Định đã quyết định thành lập một trường nữ trung học ở
Huế. Trường được lấy chính niên hiệu của Phụ vương ngài để đặt tên:
Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh.
Lễ đặt viên
đá đầu tiên được ấn định vào ngày 15/7/1917. Hôm đó cả vua Khải Định
lẫn viên Toàn quyền Albert Sarraut đều đến dự. Khi vua Khải Định cắt
băng mở màn việc xây dựng ngôi trường, ngài đã sững sờ trước vẻ đẹp
hút hồn của cô nữ sinh dâng chiếc kéo cho ngài. Khi xong việc, ngài
hỏi đám tùy tùng:
-Người dâng
chiếc kéo cắt băng là con nhà ai mà khéo quá như rứa hè?
Một cần thần
tâu:
-Muôn tâu, đó
là con gái của Thượng thư Bộ Học Hồ Đắc Trung tên là Hồ Thị Chỉ.
-Ả có chồng
chưa?
-Muôn tâu, chắc
là chưa. Trước đây phế vương Duy Tân đã đi hỏi nhưng sau lại thoái hôn.
-Được, không
cần, rồi trẫm sẽ biết thôi.
Sau khi cho
điều tra lý lịch của Hồ Thị Chỉ xong, vua Khải Định triệu Hồ Đắc
Trung vào cung để hỏi ý. Vua thành thật nói:
-Hôm nay trẫm
triệu khanh vào đây để bàn cùng khanh một chuyện rất quan trọng. Trẫm
nghe tiếng khanh có một ái nữ là Thị Chỉ rất giỏi chữ Hán lẫn chữ
Pháp. Trong lần cắt băng khai mạc công trình xây dựng trường Nữ Trung Học
Đồng Khánh, trẫm đã hân hạnh thấy được dung nhan nàng. Đúng là một
mỹ nhân sắc nước hương trời, rất xứng ở địa vị mẫu nghi thiên hạ. Nay
trẫm cũng rất cần một người vợ nói giỏi tiếng Pháp để tiện bàn các
việc cơ mật. Trước đây trẫm đã có một người vợ là con gái của thượng
thư kiêm Cơ Mật Viện đại thần Trương Như Cương. Nhưng bà ấy đã xin về
nhà ba năm rồi. Nay cưới ái nữ của khanh về trẫm sẽ phong làm hoàng
phi. Trẫm cũng đã có một người con trai với một cung nữ nay đã lên
bốn, cậu bé này sẽ là con của hoàng phi. Trẫm nghĩ đây là một việc
tốt cho khanh nên báo trước để khanh hay.
Ông Trung nghe
vua nói thì tá hỏa tam tinh vì ông biết chắc Thị Chỉ khó mà chấp nhận
cuộc hôn nhân này. Và dẫu Thị Chỉ chấp nhận đi nữa thì nàng sẽ đau
khổ vô cùng. Nhưng mệnh vua làm sao dám cãi. Bất đắc dĩ ông phải quì
xuống lạy tạ ơn:
-Đa tạ hoàng
thượng.
Vua Khải Định
nói:
-Trẫm sẽ
triệu vợ chồng khanh một lần nữa để bàn định về lễ hỏi, lễ nạp
phi. Giờ cho phép khanh trở về.
Vừa về tới
dinh, ông Trung lật đật gọi vợ vào phòng riêng thuật lại câu chuyện.
Bà Trung khóc thút thít:
-Bây giờ làm
sao? Tôi đã linh cảm biết cái số con Chỉ nó khốn đốn như thế. Nó đã
chịu khổ quá nhiều rồi! Tôi làm sao dám mở miệng để khuyên ép nó
nữa?
Ông Trung thở
dài:
-Lệnh vua
không tuân có khác chi làm phản. Không khuyên ép nổi nó thì cuộc sống
của cả nhà mình lâm cảnh nguy hiểm bấp bênh ngay. Bà thử gọi con
Hạnh nói rõ chuyện với nó may ra nó khuyên giải chị nó được. Con
Hạnh khôn ngoan, lý lẽ sắc bén, chị em nó lại thân thiết nhau, hi
vọng nó có thể thành công.
Thế là bà
Trung gọi Thị Hạnh vào nói chuyện...
Quả đúng khi
biết yêu cầu của vua Khải Định, Hồ Thị Chỉ đã đay đảy không chịu,
một mực đòi đi tu. Khi ấy Thị Hạnh mới ra tay thuyết phục:
-Chị nghe em
nói đây. Chị là người có hiếu, chị lại rất thông suốt truyện Kiều,
sao chị lại để chữ hiếu của chị thua sút nàng Kiều như thế? Lệnh
của vua ra mà không tuân thì có khác chi làm phản? Mà người chịu
trận trước hết là thân phụ chứ còn ai nữa? Chị có tưởng tượng nổi
nỗi khổ của thân phụ không? Mà dù thân phụ được tha đi nữa thì cũng
chẳng còn được dùng. Các anh sẽ phải bãi chức hoặc nghỉ học hết.
Thầy và các anh mình đều là hạng văn nhân yếu đuối liệu có thể về
đi cày để nuôi thân được không? Nàng Kiều dám hi sinh tình yêu đôi lứa,
bán mình chuộc cha sao chị lại không chịu hi sinh để cứu cha và cứu
cả gia đình đang rơi vào vòng hoạn nạn? Nếu chị đã phát nguyện đi
tu, em xin kế tục thực hiện ý nguyện đó giúp chị.
Nhờ Thị Hạnh
kiên nhẫn ỉ ôi thuyết phục mấy đêm, cuối cùng Thị Chỉ đành nghe lời.
Triều đình
đã tổ chức lễ nạp phi rất long trọng vào ngày 3/12/1917. Hồ Thị Chỉ
đã được phong Nhất giai Ân phi, ngôi vị cao nhất trong hàng thê thiếp của
nhà vua dưới triều Nguyễn (trừ hai đời Gia Long
và Bảo Đại).
Từ đó, Hồ Ân
phi luôn xuất hiện bên cạnh vua trong những buổi tiếp tân, yến tiệc
với người ngoại quốc. Nhờ vẻ xinh đẹp, hiểu biết rộng rãi, thông
thạo tiếng Pháp, lại ăn nói khôn khéo nên bà đã giúp vua Khải Định gây
được nhiều cảm tình với khách.
Tuy vậy, đó
chỉ là bề mặt của cuộc sống mà vua Khải Định cần thiết. Bên trong
hẳn ai cũng đoán ra cái cảnh đồng sàng dị mộng. Vua Khải Định thì
bất kham với đàn bà, Ân phi lại luôn bị hình bóng người xưa khuấy
động...
Chín năm sống
với vua Khải Định, Ân phi chẳng sinh được mụn con nào.
Năm 1925, vua
Khải Định qua đời. Cậu bé bốn tuổi thời Ân phi mới vào cung giờ là
Đông cung Thái tử Vĩnh Thụy lên kế vị tức vua Bảo Đại. Vua Bảo Đại
đã làm một cuộc thay đổi lớn về nghi thức nội cung: phong cho mẹ đẻ
ngài là Hoàng Thị Cúc làm Đoan Huy Hoàng thái hậu (tức bà Từ Cung).
Theo nghi thức cũ thì bà Ân phi Hồ Thị Chỉ chính là mẹ đích của vua
Bảo Đại và ở bậc trên của cung nữ Hoàng Thị Cúc - mẹ đẻ vua Bảo
Đại. Thế mà nay bà đã bị gạt ra ngoài một cách phũ phàng. Chắc
hẳn sự thay bậc đổi ngôi này đã gây xáo trộn tâm tư bà không ít. Bà không
được tôn phong, phải về sống ở cung An Định bên bờ sông An Cựu. Về sau
bà dời về trú ngụ ở một ngôi biệt thự trên đường Phan Đình Phùng.
Ra khỏi nội
cung, Ân phi không còn bận rộn công việc như trước. Càng rảnh rang bà
càng dễ dàng thả hồn trôi về quá khứ. Càng hồi tưởng những kỷ
niệm xa xưa bà càng thương nhớ vị vua thiếu niên một lòng vì nước vì
dân. Ngày kia, trong một lần ghé về thăm thân phụ, tình cờ thấy mấy
tờ báo Nam Phong, bà lấy một tờ lật ra xem và hết sức xúc động khi
đọc chùm thơ liên hoàn mười bài Khuê Phụ Thán của tác giả Thượng Tân
Thị. Bà đã bật khóc khi đọc đến đoạn:
“Khô héo lá
gan cây đỉnh Ngự,
Đầy vơi giọt
lệ nước sông Hương
Quê người
đành gởi thân trăm tuổi
Cuộc thế mong
gì nợ bốn phương!”
Khi từ giã
thân phụ bà đã xin số báo đó đem về. Bà đã nâng niu, giữ gìn nó như
một bảo vật, lâu lâu lại đem ra đọc lại.
Có lẽ vì nội
tâm chịu đựng quá nhiều áp lực, bà dần trở nên lẩn thẩn. Bà quên đi
cả việc chăm sóc cho chính mình. Bà thường ăn mặc lôi thôi, không đoái
hoài đến chuyện trang điểm. Nhiều lần bà tự làm bánh bột lọc hoặc
bánh nậm đem ra chợ An Cựu bán. Một thời gian sau bà thật sự lâm vào
cơn bệnh tâm thần...
(Truyện này
viết dựa theo nhiều tài liệu mà tài liệu quan trọng nhất là thiên
hồi ký về vua Duy Tân của Sư Bà Diệu Không, thế danh Hồ Thị Hạnh, em
gái của nhân vật chính Hồ Thị Chỉ trong truyện. NVT).
Ngô Viết
Trọng
Ý kiến độc giả
:
Thật ra bà Ân
Phi Hồ Thị Chỉ không "tâm thần" như nhiều người đã tưởng. Tôi sống
cùng xóm với bà ấy, cách xa cái "biệt thự" của Bà Từ Cung chừng 100
mét. Cái biệt thự này được chính phủ Ngô Đình Diệm cho tái thiết lại thành nhà
lầu 2 tầng để cho bà Từ Cung ở. Riêng chỗ ở của bà Phi (chúng tôi thường gọi là
"Bà Phi") chỉ là một căn phòng nằm trong dãy nhà dành cho gia nhân
của bà Từ Cung ở góc cuối trong khuôn viên của biệt thự có ngỏ ra vào riêng ở
phía sau vườn.
Trước ngày Cọng
Sản vào, chúng tôi thấy Bà Phi sống bình dị, ít tiếp xúc rộng rãi với ai, lâu
lâu nghe các đàn bà trong xóm nói rằng Bà Phi thường bực mình và hay nói xấu bà
Từ Cung, có thể vì không được chia xẻ công bằng tiền của chính phủ VNCH và Tôn
Nhơn Phủ trợ cấp cho 2 bà. Nhưng kể từ ngày Việt Cọng vào cai trị thì số phận
của Bà Phi khốn đốn, bà nghèo đói thực sự, vì thế bà phải làm bánh bột lọc mang
đi bán từng nhà để nuôi thân, bà đã từng vào nhà chúng tôi mời mua bánh nhiều
lần và chúng tôi thường gọi bà bằng Mệ, bà ăn nói nhỏ nhẹ nhún nhường lộ vẻ
chịu đựng chua xót. Bà tiều tụy và ốm yếu. Tôi rời bỏ xứ Huế năm 1982 cho nên
không còn biết bà ấy sống chết ra sao. Với tình trạng già yếu và nghèo đói,
không con cái, không nơi nương tựa thì việc cho rằng bà mắc bệnh tâm thần cũng
đúng thôi, vì đa số dân Việt sau năm 1975 đều rơi vào khủng hoảng về tâm thần.
Ngay trên đường phố Trần Hưng Đạo ở Huế cũng xuất hiện 2 người đàn bà tâm thần,
một cô trẻ đẹp nhưng mất hồn thờ thẫn lang thang đây đó, lắm khi ăn mặc hớ hênh
làm bọn thanh niên nhìn sửng sờ; còn một bà lớn tuổi thì miệng ăn trầu đỏ choét
thường chưởi bới bọn ác ôn (không trực tiếp nêu tên VC) nhưng lại làm cho bọn
Công An rất khó chịu, bà ngồi bệt trên vĩa hè, tay cầm cái nón sắt của lính
VNCH đập chang chảng lên mặt đường và chưởi lung tung, lắm khi đứng trước quán
cà phê Lạc Sơn vỗ bành bạch vào hạ thể rồi chưởi vang khiến các thanh niên
trong quán cười rân và nói : Nó có tội tình gì đâu mà cứ đập vào mặt nó tội
nghiệp vậy !! Bà này sau một thời gian lại vắng bóng, nghe nói công an đã bắt
bà điên này cho vào trại cải tạo!
Minh Sơn
***
No comments:
Post a Comment