Tác phẩm Nhà thờ đức bà Paris :
Bối cảnh xã hội :Bối cảnh xã hội :
Tác phẩm ra đời xuất phát từ việc tác giả muốn viết
một cuốn tiểu thuyết về ngôi nhà thờ nổi tiếng ở Paris. Ông đã nhiều lần đến
nhà thờ Đức bà Paris để ngắm kiến trúc cổ của ngôi nhà thờ và nảy ra ý tưởng viết
một cuốn tiểu thuyết có tính chất lịch sử lấy bối cảnh Paris thời Trung cổ. Ông
muốn ngôi nhà thờ cổ kính tráng lệ vượt lên trên thời gian và tất cả những biến
cố. Tác phẩm đã thể hiện được sự vươn đến một tầm cao triết lý, qua cách mô tả
một định mệnh đã dẫn các nhân vật gắn liền với ngôi nhà thờ này cho đến chỗ chết,
chỗ hủy diệt. Chính cảm hứng bi quan này đã đem đến cho tác phẩm vẻ lớn lao và
hoang dại.
Tóm tắt nội dung
Tác phẩm được chia làm 11 quyển và dày hơn 600
trang, nội dung cụ thể của từng quyển:
Quyển 1, 2, 3:
Esméralda là một cô gái xinh đẹp cô làm nghề múa
rong trước nhà thờ Đức Bà, công việc này bị sự cấm đoán của phó giám mục nhà thờ
là Claude Frollo. Ông này đã say mê cô vũ nữ lúc nào không hay và ông đã lệnh
cho Quasimodo bắt cóc Esméralda, sự việc không thành Quasimodo bị bắt, cô
vũ nữ bắt đầu yêu đại úy Phoebus người đã cứu cô.
Quyển 4- 6:
Là cô gái có lòng nhân từ, Esméralda bỏ qua vụ bắt
cóc và đã đem nước cho Quasimodo uống trong lúc hắn bị giam giữ. Chính vẻ đẹp
và tấm lòng của Esméralda đã đánh thức trái tim hoen rỉ, tâm hồn hoang dại của
hắn. Và Quasimodo bắt đầu yêu, một tình yêu bất diệt không cần đền đáp.
Quyển 7:
Esméralda yêu Phoebus một cách mù quáng, dù Phoebus
thực chất chỉ là một gã sở khanh, đã có hôn thê là một cô tiểu thư. Khi
Esméralda hẹn hò với viên đại úy phó giám mục yêu Esméralda đã theo dõi đôi
tình nhân và y đã không kìm chế được nỗi ghen tuông khi thấy 2 người quan hệ đã
đâm Phoebus rồi bỏ trốn. Esméralda bị kết án vì hai tội: giết người và làm phù
thủy.
Quyển 8-10:
Esméralda bị kết án treo cổ, Quasimodo phá pháp trường
để cứu Esméralda, đem cô vào trú ẩn an toàn trong nhà thờ Đức bà. Những người
ăn mày chờ Esméralda nhưng không thấy cô trở lại đã tấn công vào nhà thờ để cứu
cô nhưng Quasimodo tưởng họ đến giết Esméralda nên tấn công và đẩy lùi họ.
Quyển 11:
Phó giám mục Claude Frollo tuyệt vọng đến mức mất cả
lý trí và nhân tính. Hắn phát hiệnra Esméralda đang trú ẩn trong nhà thờ nên đã
ép buộc và đe dọa cô. Với sự che chở của Quasimodo, Esméralda vẫn sống bình an
và vẫn yêu Phoebus. Frollo đã ra điều kiện buộc Esméralda phải ưng thuận mình nếu
không sẽ báo cho cảnh binh, cô thà chết chứ không chịu.
Frollo đã giao cô cho một bà tu điên dại với mục
đích hành hạ Esméralda cho đến chết nhưng hai mẹ con đã nhận ra nhau nhờ đôi
giày trẻ em cô luôn mang bên mình. Cuối cùng cô cũng bị phát hiện và bị treo cô
lần thứ hai. Quasimodo biết được đầu đuôi câu chuyện nên đã xô ngã Frollo từ
trên tháp chuông nhà thờ xuống đất và ôm xác Esméralda chết chung trong hầm mộ.
Khi khai quật hầm mộ người ta thấy 2 bộ xương,một bộ không bình thường ôm lấy bộ
xương kia, họ định tách ra thì bộ xương không bình thường tan thành tro bụi.
Victor Hugo
Nghệ thuật tương phản trong tác phẩm:
Khái niệm:
Thủ pháp tương phản là một trong những khái niệm
không chỉ gắn với tiểu thuyết lãng mạn mà còn có dấu ấn đậm nét trong thơ. Khi
nói về thủ pháp tương phản V.Hugo đã từng nói: “Nghệ thuật hiện đại sẽ thấy
không chỉ mọi vật trong thế giới đều là cái đẹp, phù hợp với lòng người
mà sẽ cảm thấy cái xấu bên cạnh cái đẹp, cái dị dạng bên cạnh cái xinh xắn, cái
thô tục được che giấu đằng sau cái cao cả, cái ác tồn tại sau cái thiện, đen tối
và ánh sáng trộn lẫn vào nhau”.
Tương phản có nguồn gốc từ hội họa, nhằm thể hiện những
thuộc tính trái ngược nhau giữa các sự vật, hiện tượng đó là sự tương phản giữa
màu sắc và ánh sáng, giữa chất liệu và yếu tố tạo hình. Trong văn học, tương phản
được biết đến như một biện pháp nghệ thuật nhằm so sánh, đối chiếu giữa hai bộ
phận văn học. Đem một bộ phận (một khái niệm, một sự vật, một hiện tượng) đặt
ngang bằng hoặc bên cạnh (khái niệm, sự vật, hiện tượng) để gây ấn tượng mạnh mẽ
làm nổi bật một trong hai bộ phận trên.
Thủ pháp tương phản trong văn học được
dùng để xây dựng những hình ảnh, những chi tiết, giọng điệu, hình tượng,…có
tính chất, đặc điểm hoàn toàn ngược, nhằm nhấn mạnh một nội dung, một quan điểm,
một tư tưởng nào đấy. Tuy nhiên , sự ngược về bản chất ấy phải được xét cho những
đối tượng trên cùng một bìnhdiện và phải theo một tiêu chí nhất định, điều đó mới
khiến nó có ý nghĩa.
No comments:
Post a Comment