Đắm Thuyền (Thukỳ)
Biết bơi thật quan
trọng, vì nó cho ta một sự tự tin mạnh mẽ; nhưng rất tiếc Thukỳ chỉ
mới biết bơi cách đây 2 năm, khi dọn đến đảo Navarre, Florida; còn trước
đó thì rất sợ… “nước”, và xém chết đuối khi thuyền bị đắm.
Thị trấn Cở Đỏ (Cần
Thơ) đầy kinh, rạch, nên thuyền bè là phương tiện chuyên chở và giao
thông khá phổ biến. Đa số dân ở đây đều biết bơi từ bé, chỉ có
gia đình chồng Thukỳ thì từ thành phố về nên chẳng ai biết bơi.
Sau khi miền Nam “bị
giải phóng” thì dân chúng không những thiếu ăn mà cũng thiếu mặc; vì thế, ngoài
gạo để sống, còn cần quần áo để che thân, nên vải là một trong những nhu yếu
phẩm hàng đầu. Nó quan trọng đến nỗi trong nhân gian có một chuyện tếu kể
rằng:
Có một ông nọ vừa được
người con từ Mỹ gởi về một xấp vải thì liền mang đến một cô thợ may người gốc
Quảng để may quần.
Sau khi đo vải, cô thợ
may hỏi khách:
-Răng, anh cắt ngắn
hay cắt dài?
-Cắt ngắn là sao, và
cắt dài là sao?
-Cắt ngắn thì đủ 2
cái; cắt dài chỉ đủ 1 cái thôi!
-Cô ráng cắt dài 2 cái
được không?
-Chịu thôi, ráng lắm
cũng chỉ đủ 1 cái rưỡi là cùng 😊!
Đó là chiện tiếu lâm;
còn đây là chiện thật của Thukỳ:
Hồi đó, tất cả nhu yếu
phẩm đều được bán theo tiêu chuẩn và tem phiếu, và may mắn Thukỳ mua được từ
hợp tác xã một thước vải đen; nhưng thưa quý anh chị, nguyên cặp giò của Thukỳ
đã dài hơn 1 thước rồi, thì làm sao may đủ một cái quần để đi “lao động xã hội
chủ nghĩa”; thế là đành phải mua chợ đen thêm một thước nữa; và cuối cùng là
cái quần được nối ngang lưng, trông chẳng giống con giáp nào!
Kể như vậy để những ai
chưa từng sống dưới thời “bao cấp” hiểu được vải vóc quý như thế nào. Mỗi
khi nhận được thùng quà là mở ra xem có vải hay không; do đó, vào lúc bấy giờ,
nghề bán vải là một nghề “cao cấp” và kiếm khá bộn bạc.
Để thực hiện giấc mơ
của mình, Thukỳ đành phải theo các chị em bạn hàng thuê ghe thuyền đi vào làng
xóm để chờ mua vải từ những người mua được từ những hợp tác xã của nhà nước để
mang về thị trấn bán lại kiếm lời.
Công việc có vẻ dễ
dàng, nhưng thật ra không đơn giản; vì yếu đuối như Thukỳ làm sao có thể ôm một
đống vài nặng nề xuống ghe, đặc biệt là phải bước trên một miếng ván chòng
chành, mà Thukỳ thì lại rất sợ nước, rủi rớt xuống không thành “người cá” cũng
thành… “hà bá”, và cơn ác mộng thành sự thật:
Một lần, Thukỳ và
2 chị nữa chở hàng, anh chàng lái thuyền cũng còn hơi trẻ nên hiếu
thắng, chạy đua với 1 chiếc thuyền đuôi tôm, khi Thukỳ la lên thì đã
trễ 2 cái cần của máy chạm vào nhau và thuyền bị lật! Trong
giây phút thập tử nhất sinh, Thukỳ
nắm chắc chết đuối, thì Thukỳ bám lấy cái cây sắt là cái cây dùng
để làm mui thuyền che nắng. May mắn
thay, khi thuyền lật thì cái máy nặng nên mui chìm xuống trước, còn đáy
thuyền thì nổi trên trên mặt nước. Nhờ bám cây sắt nên Thukỳ cố
gắng ngoi mặt lên thở. Con kinh không
lớn lắm (khoảng 60 mét), bên này bờ có thể gọi bên kia nghe được, nên
dân làng bơi thuyền ra cứu. Khi họ nắm
tay Thukỳ và bảo bỏ tay ra để đưa lên thuyền, Thukỳ sợ quá không dám
buông tay, cho đến khi 2 chiếc thuyền cặp vào dìu cả 2 cánh tay thì
mới đưa Thukỳ lên được.
Những hàng hóa kỳ
đó vớt được tí nào hay tí đó, dĩ nhiên lỗ vốn nặng, nhưng Thukỳ
chẳng còn tha thiết nữa, chỉ biết khóc vì sợ, và khóc thật nhiều:
sợ mình chết đi thì ai nuôi con; nếu có chết thì cả hai mẹ con chứ không thể
nào bỏ lại cháu Cường, lúc đó chỉ mới được 2 tuổi, và cũng là hy vọng duy
nhất để sống.
Kỷ niệm khổ sở
này và nỗi sợ hãi ám ảnh mãi, dù vậy vẫn bồng con đi vượt biên
nhiều lần, dám đánh đổi tất cả để được 2 chữ tự do, cho con có cơ
hội ăn học nên người; và nhìn kết quả hôm nay, Thukỳ mãn nguyện, chỉ
biết tạ ơn và chưa hề than vãn, dù Mỹ không phải là thiên đàng, mà
mình phải làm rất nhiều, với bao cực nhọc, chịu khó...Nhưng ít ra cũng
có cơ hộ để tạo dựng cho mình một cơ ngơi vui sống, con cái thành
người.
Thukỳ.
No comments:
Post a Comment