Sunday, January 27, 2019

ĐỌC THƠ XUÂN (TRẦN DOÃN NHO)



Đọc thơ Xuân
Trần Doãn Nho
 
Sắc mai vàng đón Tết. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Trong ngôn ngữ, có lẽ không có chữ nào gợi nên những điều tốt đẹp bằng chữ “xuân”: nắng xuân, mưa xuân, chiều xuân, đêm xuân, ngày xuân, hoa xuân, vườn xuân, sắc xuân, thanh xuân, tuổi xuân, hồi xuân, nghênh xuân, du xuân, tình xuân, đón xuân rồi những là bến xuân, phiên gác đêm xuân, nhớ một chiều xuân…

Xuân nào cũng gắn liền với hy vọng, với sự sáng sủa, với sự tươi vui, nồng ấm và sức sống.
Tự điển Hán-Việt Thiều Chửu diễn tả chữ “xuân” như sau: “Xuân là đầu bốn mùa, muôn vật đều có cái cảnh tượng hớn hở tốt tươi, cho nên người ta mới ví người tuổi trẻ như mùa Xuân mà gọi thì tuổi trẻ là thanh xuân 青春 xuân xanh, ý thú hoạt bát gọi là xuân khí 春氣, thầy thuốc chữa khỏi bệnh gọi là diệu thủ hồi xuân 妙手回春.” Xuân còn có nghĩa là rượu, cốc rượu đầu Xuân; thời nhà Chu bên Tàu, cứ đến tháng trọng Xuân 仲春 (Tháng Hai) thì cho cưới xin, vì thế mới gọi các con gái muốn lấy chồng là hoài xuân 懷春.”

Chả thế mà nói đến “thơ Xuân” hay “nhạc Xuân,” dù chưa đọc, chưa nghe qua cũng đã cảm thấy vui vẻ, rộn ràng. Xuân, do đó, bao giờ cũng hàm nghĩa tích cực và lạc quan. Hãy nghe Nguyễn Du phác họa mấy nét mùa Xuân:

“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

Én bay, nắng rực rỡ, cỏ non xanh, cành hoa trắng, hình ảnh nào cũng tươi, đẹp, sáng sủa.
Với Hồ Xuân Hương, xuân gắn liền với xanh, xuân là xanh: xuân xanh. Và cũng gắn liền với cái trong trắng, trinh nguyên của người thiếu nữ mới lớn: tờ giấy trắng. Chả thế mà thời gian còn son trẻ của các cô gái được gọi là “xuân thì,” “đương xuân.”

“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh.”

Nguyễn Bính về sau này cũng cho là “xuân” thì đi với “xanh”:

Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành”

Với Đoàn Văn Cừ, đó là cảnh làm thơ và viết câu đối ngày Tết:

“Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hý hoáy viết thơ xuân
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ”
Còn Anh Thơ, xuân là cảnh sống động ngoài đường làng:
“Ngoài đường ngõ bùn lầy theo nước chảy
Thằng cu con quần đỏ cưỡi lưng bà
Các cô gái đội vàng hương ôm váy
Miệng tươi cười mừng tuổi những người qua”
(Ngày Tết)

Hàn Mặc Tử ví von thời điểm đẹp nhất của mùa Xuân với trái cây chín tới qua cái tựa đề: “Mùa Xuân Chín.” “Chín” ở đây là viên mãn, tròn đầy:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”

Chín ngoài trời mà cũng là chín ở trong lòng những cô thiếu nữ:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…”

Nguyên Sa lại thu gọn mùa Xuân vào một chỗ, đó là hình ảnh của “em,” người yêu.

“Mùa xuân em mặc áo vàng,
Ở trong thơ cổ chim hoàng hạc bay.
Em vừa xoay nhẹ vai gầy,
Nhìn coi vũ điệu vào đầy giấc mơ.
Nhìn coi chỗ cuối bài thơ,
Nụ hôn màu đỏ trời cho rượu đào.
Anh nhìn em mới bước vào,
Nhìn xuân, xuân cát tiếng chào đầu năm.”
(Thơ Xuân Áo Vàng/Nguyên Sa)

Xuân là “em.” “Em” là xuân. Nói cách khác, chính tình yêu là mùa Xuân.
Thanh Tâm Tuyền có một cách hình dung khác. Xuân là Tháng Giêng. Mà Tháng Giêng thì cây cỏ “hiện thành người,” là “cỏ non dại dột,” “cây leo yếu đuối.” Mùa Xuân gắn liền với cái non, tơ, yếu, mới chớm:

“Người ta bảo đêm tháng giêng cỏ cây hiện thành người
Anh bảo em chúng ta hãy là
Những cây leo yếu đuối
Những cỏ non dại dột
Mùa xuân đòi em trong quấn quít chờ đợi”
(Đêm/Thanh Tâm Tuyền)

Mùa Xuân cũng là con thỏ hồn nhiên chạy trên cỏ sắc. Xuân biến tóc thành miệng: chuỗi cười, biến  đôi môi thành lá và biến nụ hôn thành thành sao: chòm hôn.

“Những bước chân thỏ rừng
Chạy trên cỏ sắc
Sợi tóc đen như một chuỗi cười
Trên chúm môi lá biếc
Những chòm hôn vội vàng
Làm những vì sao đổi ngôi
Anh muốn làm mới tình yêu”
(Bài Thơ Của Tháng Giêng)

No comments: