Monday, October 14, 2019

TRUYỀN THUYẾT HOA BỈ NGẠN




Người ta thường nói, nghìn năm hoa nở, nghìn năm hoa tàn, hoa vừa kịp nở lá vội tàn, lá vừa chớm mọc thì hoa lại tàn, chỉ thấy hoa mà không thấy lá, khi thấy lá lại chẳng thể gặp hoa, lá và hoa dẫu cùng chung một rễ, vốn rất gần mà chẳng thể gặp nhau, cứ nhớ thương mà ôm sầu thương nhớ… Đó chính là hoa bỉ ngạn.

Hoa bỉ ngạn có ý nghĩa là “phân ly, đau khổ, không may mắn, vẻ đẹp của cái chết”, nhưng nhiều người hiểu ý nghĩa hoa là “hồi ức đau thương”.

Truyền thuyết kể rằng hoa bỉ ngạn là loài hoa duy nhất mọc dưới đường xuống hoàng tuyền, khi linh hồn trước khi đi qua cầu Nại Hà bắc ngang bờ Vong xuyên, sẽ gửi toàn bộ ký ức của mình cho hoa bỉ ngạn.

Dù là đau khổ tột cùng hay yêu thương thắm thiết, hoa bỉ ngạn đều thu nhận những hồi ức đó.

Có một bài thơ về hoa bỉ ngạn khiến ai cũng phải đau lòng mỗi khi nghĩ về loại hoa này:

 
“Lòng đã nở một nhành hoa Bỉ Ngạn
Nhìn Vong Xuyên đưa tiễn mấy dòng trôi
Cánh mong manh trói đời ta vô ảnh
Bờ nhân duyên xa tít tắp chân trời…”


Có nhiều truyền thuyết về hoa bỉ ngạn nhưng câu chuyện dưới đây khiến người ta thấy ám ảnh, thấy đau đớn và thức tỉnh con người về tình ái thế gian:

Có một đôi nam nữ ở thiên đình dù có luật không được phép gặp gỡ nhưng vẫn cố phá luật để được ở cùng nhau.  Vì vi phạm luật trời mà họ bị bị đọa xuống trần gian rồi biến thành hoa và lá của cùng một cây.  Lá xanh, hoa đỏ, đẹp kiêu sa nhưng chất chứa nỗi buồn.  Có điều, loài hoa này rất đặc biệt, có hoa thì không thấy lá, mà có lá lại chẳng thể thấy hoa, giữa hoa và lá, cuối cùng cũng không thể gặp nhau.

Ngày nọ, Đức Phật đi qua nhìn thấy có một loài hoa đỏ rực như lửa, vừa kiêu sa lại vừa u sầu. Phật vừa nhìn đã thấu tỏ được huyền cơ trong đó. 

Quả thật là:
“Bỉ Ngạn hoa, khai nhất thiên niên, lạc nhất thiên niên, hoa diệp vĩnh bất tương kiến.  bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử” –

 Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm nở, một nghìn năm tàn, hoa và lá vĩnh viễn không thể gặp nhau.  Tình không vì nhân quả, duyên đã định tử sinh.

Đức Phật xót thương, bèn quyết định mang hoa về miền Cực Lạc. Nhưng vì Cực Lạc là Phật quốc, là thế giới thanh tịnh và thuần khiết, nên tất cả những gì là tình si, nhung nhớ, u sầu, ‘đau khổ’… đều không được phép vào miền tịnh thổ.  Những thứ xúc cảm con người ấy đều phải rời khỏi hoa, kết thành một màu đỏ rực lửa rồi rơi xuống sông Vong Xuyên.

Chính vì thế mà khi đến Cực Lạc đóa hoa trong tay Phật đã biến thành một màu trắng tinh khiết không còn nhuốm bụi trần.  Đức Phật bèn gọi nó là Mạn Đà La hoa, hoa của cõi Phật, cũng chính là một loại hoa Bỉ Ngạn.

Bồ Tát Địa Tạng biết nghiệp duyên của hoa Mạn Đà La hiện đang nằm dưới sông Vong Xuyên.  Ngài bèn đến bên bờ sông, ném xuống một hạt giống, chỉ trong chốc lát một đóa hoa đỏ tươi bay ra khỏi mặt nước.  Bồ Tát đón lấy hoa và nói:
“Ngươi đã thoát thân trở về miền Cực Lạc, sao còn đem nỗi hận tình si để lại nơi khổ ải vô biên này chứ?  Vậy thì, ngươi hãy ở đây làm sứ giả tiếp dẫn các linh hồn đi về phía luân hồi.  Cực Lạc đã có Mạn Đà La hoa rồi (Mandarava), vậy ta sẽ gọi ngươi là Mạn Châu Sa hoa vậy (Manjusaka)”.

Từ đó có hai loài hoa Bỉ Ngạn, một loại trắng ngần tinh khiết, một loại lại rực rỡ hoa lệ; một loại gợi nhớ gợi thương, chia ly đau khổ, một loại lại vô dục vô cầu, vô khổ vô bi; một loại trầm luân trong nỗi sầu nhân thế, một loại lại thanh tú nơi Phật quốc thanh cao.  Và hoa bỉ ngạn (đỏ và trắng) ra đời từ đấy.

Loài hoa bỉ ngạn như một lời nhắc nhở với con người rằng:
Ái tình là mộng ảo, khi duyên hết thì tình cũng dứt, trả hết nợ một đời thì đừng nên luyến tiếc mà càng thêm đau khổ.  Vì con người mê đắm trong ‘Tình’ nên cần phải ngộ được chân lý này mới có thể thanh thản giữa các kiếp luân hồi.

Nguồn: trên Google 
NgocAnh Truong post




No comments: