Pourquoi le prononcer ce nom de la
patrie?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
(Milly ou la terre natale - Lamartine)
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
(Milly ou la terre natale - Lamartine)
Quê hương ấy nhắc chi thêm lưu luyến,
Giữa lưu đày rạng rỡ* xuyến xao lòng.
Từ xa xôi vọng lại vấn vương hồn
Bước chân cũ hay âm quen người bạn.
( Quê Mẹ, Mailoc phỏng dịch)
Giữa lưu đày rạng rỡ* xuyến xao lòng.
Từ xa xôi vọng lại vấn vương hồn
Bước chân cũ hay âm quen người bạn.
( Quê Mẹ, Mailoc phỏng dịch)
Tôi muốn đổi chữ “brillant” (rạng rỡ)
thành “douloureux” vì trốn chui, trốn nhủi, vượt biên còn thua con chó đói, thì
có gì là “brillant”. Sợ mang tội với Lamartine, lại thừa một “pied” (vế).
Tôi là thằng “lăn chai”, lúc nhỏ suốt
ngày ở ngoài đồng, lội hết mương nầy đến rạch kia. Tôi không phải đi chăn trâu,
nhưng tôi cỡi trâu “nghề lắm”. Leo lên lưng trâu đâu có dễ. Tôi mới sáu, bảy tuổi,
đứng vừa qua khỏi ngang nửa bụng trâu, mà trâu đâu có “mọp” xuống như voi cho
mình leo lên. Vậy mà thằng tui phóng lên ngang hông trâu cũng được, kẹp “đầu gối”
(trâu) trước cũng xong, phăng lên bằng đầu gối sau cũng “phẻ” mà kéo đuôi cũng
yên. Trâu tốt hơn “người ta”: không khi nào “đá giò lái”, không “đá ngược” bạn
bè.
Nắng, mưa tôi có coi ra gì đâu? Mưa xối
xả, mưa nặng hột,… tắm mưa càng vui. Tắm đến chừng da tái mét, run lập cập mới
thôi. Một lát – có khi cả giờ nữa, nắng lên, khô queo,… thì lội nữa.
Tụi chăn trâu “nhà nghề” chỉ tôi đủ thứ
hết: làm sao “cột dàm” con nghé để nó khỏi ăn mạ. Người ta vác chổi chà mà đập
mầy đó (không đập trâu đâu, vì chổi chà có thắm thìa gì nó). Nhìn dấu ở cửa
hang là biết có cua ở trỏng hay không, cua lớn hay cua “nghé” (cua con, kẹp đau
lắm). Bắt cá bóng kèo thì phải dùng một chân chận cái ngách nó lại, câu cá trê
phải sửa soạn mồi trước: đập mấy con ốc bươu, để qua bữa sau có mùi hôi hôi là
cá trê nó đớp nhanh lắm, xúc cá ròng ròng coi chừng bị cá mẹ táp cẳng, vì bênh
con (ròng ròng là cá lóc con, cỡ 1/2 ngón tay út, kho tộ mặn mặn, cay cay… ngon
hơn caviar nữa. Mà tôi có bao giờ được ăn caviar đâu mà xạo vậy!). Bọt trắng
nhuyễn trên mặt “mương”, nhưng bọt nào là ổ cá chìa vôi, chả làm gì được hết, bọt
nào là ổ cá “xiêm”, loại cá lia thia xanh mun, đá chết bỏ chứ nhứt định không
chạy.
Lên Saigon, “lội” gần hết “hang cùng
ngõ hẹp” của quận Tư (sau nầy là quận Năm, dành tên quận Tư cho bên Khánh Hội),
chui vào Đại Thế Giới coi hát “cọp”, băng cầu chữ Y, qua giang sơn của ông Bảy
(Bảy Viễn), đi chen lấn giựt cái “lưỡi” ông Tiêu cúng rằm tháng Bảy.
“Nắng Saigon, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
Tôi có biết lụa là gì đâu? Hà Đông ở
đâu? Thôi, tôi xin phép Nguyên Sa mà sửa lại:
“Nắng Saigon, tui đi mà chẳng ngán
Bởi vì da mốc thích “đui then” rồi.
Bởi vì da mốc thích “đui then” rồi.
Ra Chasseloup, đến mùa me chín, leo
lên “rung” mạnh. Me rụng đầy đầu tụi ở dưới đất. Thằng nào ở “trển” vậy? Thằng
Đông chớ ai vô đây.
Trước Bộ Y Tế có hai cây gừa, trái
tròn, ngọt, cây chót vót, lại cũng thằng Đông leo. (Sau 75, tôi vẫn còn thấy
hai cây nầy, già lão rồi, có ai để ý tới làm chi)
Vào lính, theo đơn vị hành quân, nhớ từng
con suối nhỏ, từng gò mối, từng cây cầu khỉ,… nhứt là những nơi “đụng” nặng.
Lính tử trận. Quan cũng đền nợ nước. Thứ hai, người vợ trẻ đưa chồng lên Đức
Hòa. Thứ bảy, đã chít khăn tang. Nhưng tôi vẫn thương vẫn nhớ cái quận “nắng bụi,
mưa bùn”… nghèo xơ nghèo xác nhưng đầy ấp tình người. Hoàng hôn xuống, nghe ảnh
ương, nhái bầu, nhái bén, cả bao nhiêu thứ côn trùng hòa tấu “symphonie
pastorale” nghe mà rụng rún.
Giờ đây, lưu lạc xứ người, muốn nghe…
có đâu mà nghe.
“Lòng quê đi một bước đường một đau ”
(Kiều)
(Kiều)
Tâm trạng nhớ nhà là vậy
Tôi không dám “nghĩ” hoặc “đoán” tình
cảm của ai khác. Riêng với tôi thì: tình đầu, tình đuôi, tình giữa… gì gì, thì
với thời gian cũng sẽ khuây khoả, rồi phai, rồi tàn và rồi thuộc về dĩ vãng, dù
nó “apporte chaque jour tout le bien, tout le mal”.
Nhưng, nhớ nhà thì hoàn toàn khác, lạ.
Như một định luật tự nhiên, “tên” nào “lội” nhiều, lăn lóc với “đất nước” nhiều,.. khi
về già, nhớ nhà càng ray rứt, càng nhức nhối.
Cái khổ là càng muốn quên, càng lại nhớ.
Có những đêm thức giấc, nhớ quá, không tài nào ngủ lại được. Nhớ ai, ai đâu mà
nhớ. Nhớ NHÀ!
Lúc ở Chasseloup, đọc sách tả Tour
Eiffel, Montparnasse, Les Invalides, Chateaux de la Loire.. náo nức muốn xem lắm.
Giờ xem qua rồi thì “thôi”. Nó không “thấm” vào xương, vào tủy, vào tim, vào óc
như cái nhớ nhà.
“… Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương. ”
(Làng Tôi – Chung Quân)
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương. ”
(Làng Tôi – Chung Quân)
Chắc tại tôi là đứa “chả giống ai”.
Thôi đành chịu vậy.
Mấy trang viết nầy không đầu, không kết,
ý tứ lung tung, “à bâtons rompus”, “du coq – à – l’âne”. Bà con có xem thì
“xính xái”, từ bi hỷ xã dùm. Thiện tai, thiện tai.
Thôi thì cứ xem như :“mémoires d’outre
tombe” của tôi vậy.
Trước sau gì, cát bụi cũng sẽ về cát bụi
QUANDO SATIS DIXISTI, PERISTI
QUANDO SATIS DIXISTI, PERISTI
(Quand tu auras dit assez, tu seras
mort)
(St Augustin)
(St Augustin)
“Mai đây trong chuyến tàu vạn cổ
Nếu có người thương đến tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa”
(Giang Hữu Tuyên)
Nếu có người thương đến tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa”
(Giang Hữu Tuyên)
Đúng, hệ lụy núi sông xưa!
“Objets inanimés, avez vous donc une
âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer“
(Lamartine - Milly ou la terre natale)
Vật vô tri kia hỡi có linh hồn?
Sao mi quyện hồn ta trong thương cảm!
(Mailoc phỏng dịch)
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer“
(Lamartine - Milly ou la terre natale)
Vật vô tri kia hỡi có linh hồn?
Sao mi quyện hồn ta trong thương cảm!
(Mailoc phỏng dịch)
Thôi đành
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng thử nhân sầu ”
(Thôi Hiệu)
Yên ba giang thượng thử nhân sầu ”
(Thôi Hiệu)
Vậy, tôi đã làm được gì?
* Gia Đình: Trả hiếu?
– Má tôi mất sớm quá, tôi có nhớ gì
đâu, nhứt là mấy tháng cuối cùng, mỗi lần tôi muốn tới gần Má tôi, thì các dì,
cô, cậu… (đều ở nhà tôi để săn sóc má tôi) bảo: “Con ra ngoài chơi đi, để má
con ngủ”, ngủ yên… Yên Giấc Ngàn Thu.
– Tôi có làm được gì giúp Ba tôi đâu.
Chưa xong y khoa, niềm an ủi duy nhứt của tôi là: tôi đã cố hết sức nghe lời Ba
tôi, dĩ nhiên, đôi lần chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện “đâu đâu” làm Ba tôi không
vui.
– Tôi rất mừng là đã cùng vợ tôi quyết
định “sinh tử”: chết thì chết chung, không thể sống với vc được. Tụi nó không
lương tâm, không tim, không óc, không cả tình người. Ít nhứt, dung thân ở xứ lạ,
không ai ngăn cấm con tôi: “Mầy là con sĩ quan ngụy, không được lên cấp
ba”. Đó là nguyên văn của tên “giám hiệu” trường Petrus Ký (tôi khôngmuốn
nhắc tên mới của trường) khi đứa con trưởng của tôi học xong lớp 9 (classe de
3è) không được lên lớp 10 (classe de seconde). Đuổi học.
* Tổ Quốc: xin cho tôi mượn hai
câu thơ của một nhà văn “gốc lính”
“Cúi đầu tạ với quê hương
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh”.
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh”.
Tôi đã đội trên đầu sáu chữ: DANH
DỰ, TỔ QUỐC, TRÁCH NHIỆM. Ngày nào còn thở tôi còn tôn thờ. Chỉ khi nhắm mắt
thì trách nhiệm của tôi với tổ quốc VNCH mới kể là hết.
Je ne fléchirai pas ! Sans plainte
dans la bouche,
Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel ! Liberté, mon drapeau !.
(Victor Hugo - ultima Verba)
Ta vẫn chẳng khom lưng đâu! Không kêu ca trong miệng
Bình tĩnh, đau thương, khinh cả bọn theo hùa
Trong cảnh đày, ta vẫn ôm chẳng chuyển
Tổ quốc, bàn thờ thiêng! Tự do, đẹp lá cờ!
( Bản dịch của Xuân Diệu - Lời Cuối Cùng)
Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel ! Liberté, mon drapeau !.
(Victor Hugo - ultima Verba)
Ta vẫn chẳng khom lưng đâu! Không kêu ca trong miệng
Bình tĩnh, đau thương, khinh cả bọn theo hùa
Trong cảnh đày, ta vẫn ôm chẳng chuyển
Tổ quốc, bàn thờ thiêng! Tự do, đẹp lá cờ!
( Bản dịch của Xuân Diệu - Lời Cuối Cùng)
THAY LỜI CUỐI
Những dòng sau đây, tôi:
– Kính dâng quý Trưởng Thượng, Niên
Trưởng đã rời Việt Nam trước 30-04-1975
– Gởi đến thế hệ trẻ, những người chưa
“nếm” mùi vc.
Tôi dạy vạn vật ở Petrus Ký từ năm
1963. Lúc bấy giờ, thi Tú Tài 1 và 2 còn vấn đáp. Chưa khi nào tôi hỏi lý lịch
thí sinh trước khi cho điểm. Nói chung, trong suốt lịch trình thi, tất cả Giáo
sư đều xử sự như thế.
Tết Mậu Thân, con đường tiếp liệu (y
dược, y cụ..) của đơn vị tôi bị vc (đã chiếm Vinatexco, Vifon, và các hãng kế cận)
đóng chốt. Tôi phải liên lạc với cố vấn đơn vị tôi, trình với cố vấn trưởng (cố
vấn cho Tư Lệnh Sư Đoàn) cho phép tôi dùng trực thăng riêng của ông về căn cứ
73 tồn trữ y dược, nhứt là bông, băng, băng cá nhân, nước biển và trụ sinh.
Trớ trêu thay: người thương binh đầu
tiên được truyền chai nước biển “nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một
vc.
Trong hơn bốn năm trấn ở Đức Hòa, tôi
đã gọi tản thương bằng trực thăng về Tổng Y Viện Cộng Hòa ít nhứt là mười vc bị
thương nặng. Không tản thương thì chắc chắn 100% chúng đi“chầu Bác” rồi.
Dù mưa, dù nắng, một giờ khuya, hai giờ
sáng,… chưa lần nào phi hành đoàn hỏi tôi tản thương lính nào vậy? QLVNCH hay
vc. Tất cả đơn vị Quân Y QLVNCH đều làm như thế.
Tôi muốn viết thật rõ, hét thật to, ý
nghĩ thật trong sáng: Tôn chỉ của dân VNCH, của QLVNCH, của chính phủ VNCH
là TÔN TRỌNG CON NGƯỜI, cách hành sự chứa đầy tình người.
Sau 04/1975, bọn khát máu chóp bu vc
đã ra lệnh phá tan nát xã hội miền Nam, mà nền tảng là gia đình. Bao nhiêu gia
đình sĩ quan QLVNCH, viên chức VNCH bị gây áp lực đến đổ vỡ.
Bao nhiêu dân miền Nam bị lừa gạt, rồi
bị ép tử, bỏ cho chết, chết đói, chết vì bệnh tật,… ở những khu gọi là kinh tế
mới.
Bao nhiêu thanh thiếu niên “con ngụy”
bị ép buộc qua Miên làm bia đỡ đạn cho vc.
Bao nhiêu trăm ngàn người VNCH đã thiệt
mạng trên đường tìm tự do, thoát ách vc.
Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có
lần nào mà người dân Việt Nam, vốn rất gắn bó với “quê cha đất tổ”, với “mồ mả
ông bà” liều chết, bỏ nước ra đi tìm tự do đông đến số triệu.
Tôi viết để quý vị Trưởng Thượng và thế
hệ trẻ hiểu được mức độ khát máu, tàn ác, vô nhân đạo, đầy thú tính của vc.
Riêng cá nhân tôi, tôi không thù hằn
vc vì:
1- Tôi đã hấp thụ nền giáo dục nhân bản
miền Nam
2- vc không xứng đáng để tôi thù hằn,
vì vc đã mất hẳn tính và tình người.
Tôi rất cám ơn, thương mến, kính yêu
“bà xã” tôi đã chịu bao nhiêu cay đắng, cực khổ tảo tần giữ vững gia đình, lo
cho bốn đứa con tôi.
Hiện giờ, chúng là công dân đơn thuần
(simple citoyen) của quốc gia tạm cư, không là “quan to, quan bé” gì hết.
Nhưng, người ta đã đối xử với chúng tôi rất ấm áp tình người.
BS. Nguyễn Sơ Đông
No comments:
Post a Comment