Hải
Thượng Lãn Ông & Chuyện Tình Buồn
Bác sĩ Đỗ Hồng
Ngọc
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720–1791) quê
ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là huyện Mỹ Văn, Hưng Yên)
nhưng ông về quê mẹ là làng Tình Diệm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống bằng
nghề bốc thuốc ngay từ khi còn trẻ. Ông lấy hiệu là Lãn Ông, tức ông già lười.
Tuy nhiên, ông chỉ lười công danh, lười đua chen
ở chốn quan trường, còn sự nghiệp y học thì ông rất chăm chỉ nghiên cứu và trở
thành danh y bậc nhất thời bấy giờ. Ông có bộ sách y học đồ sộ Hải Thượng y
tông tâm lĩnh gồm 65 quyển đúc kết kinh nghiệm 40 năm bốc thuốc chữa bệnh cứu
người, một bộ sách y học lớn nhất nước ta từ trước tới nay.
Cũng vì tiếng tăm của ông vang dội đến tận
Kinh đô mà năm 1781 chúa Trịnh Sâm triệu ông ra Thăng Long để chữa bệnh cho Thế
tử Trịnh Cán. Ông đã ghi chép lại toàn bộ chuyến đi này trong tác phẩm Thượng
Kinh ký sự (Ký sự lên Kinh). Đây là một tác phẩm văn chương đặc sắc, đề cập đến
đời sống sinh hoạt của tầng lớp vua chúa, quan lại và thị dân ở chốn Kinh thành
vào cuối thế kỷ XVIII.
Trong chuyến lên Kinh lần này, Hải Thượng Lãn
Ông tình cờ gặp lại người xưa, trong một trường hợp rất đặc biệt. Nguyên do là,
khi còn nhỏ ở nhà, Lê Hữu Trác đã được bố mẹ hỏi cho một cô gái con nhà quan
làm vợ. Các thủ tục dạm hỏi đã hoàn tất, chỉ chờ ngày cưới. Nhưng sau đó do gặp
trắc trở, ông từ hôn rồi vào quê mẹ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) sinh sống.
Hải Thượng Lãn Ông nào có biết rằng, cô gái đó
sau này không lấy ai nữa, vì cho rằng mình đã có nơi gá nghĩa rồi. Cô ở nhà
chăm sóc cha mẹ. Khi cha mẹ mất, cô gửi thân vào chốn cửa thiền. Hơn 40 năm
sau, bây giờ cô gái năm xưa đã trở thành một nhà sư già. Bà đi khuyến giáo thập
phương để về đúc chuông chùa làng và rồi gặp ông trong một nhà trọ ở Kinh
thành.
Chuyện đó được Hải Thượng Lãn Ông ghi lại
trong Thượng Kinh ký sự…
Người xưa tìm lại
Đến Kinh thành rồi,
một ngày nọ, có hai lão ni đến chỗ Hải Thượng Lãn Ông ngụ, nói rằng:
“Chùa Huê Cầu đúc chuông lớn, công quả chưa
thành, chúng tôi đến đây khuyến hoá.”
Thế rồi một lão ni tự
giới thiệu mình là trụ trì chùa núi An Tử, còn lão ni kia thì giới thiệu mình
là con gái quan tả thừa ty Sơn Nam, quê ở Huê Cầu.
“Tôi nghe nói giật mình như tỉnh giấc mơ”, Lãn Ông viết. Sau đó ông tìm cách “hỏi nhỏ một
tiểu cô trong bọn tòng hành mới biết đây là người cũ của mình”.
Rõ ràng một lão ni tìm đến một quan nhân (lúc này Lãn Ông đang làm quan thầy
thuốc ở trong triều) để khuyến hoá mà lại xưng cái gốc tích của mình ra như
thế, phải có lý do gì chứ. Vì người xuất gia vốn đã phải xa lánh bụi trần, đâu
còn vấn vương đến gốc tích của mình. Và đúng vậy, chỉ mới nghe qua địa danh Sơn
Nam, Huê Cầu thôi, đã đủ làm cho Lãn Ông choáng váng, “giật mình như tỉnh giấc mơ”.
Chuyện đúc chuông, khuyến hoá chẳng qua là cái
cớ để cho người xưa có dịp gặp lại ông. Tưởng tượng mà xem, lão ni đã phải trần
tình năn nỉ, thuyết phục sư bà ra sao để sư bà động lòng chịu cùng xuống núi
một phen.
Tuy biết khá rõ rồi, nhưng vốn thận trọng, Lãn
Ông mới “trắc nghiệm” lại lần nữa, vì biết đâu chỉ là một
sự tình cờ, ông bèn kể rõ họ tên quê quán…
Lãn Ông viết tiếp:
“Lúc đó chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu mặt đỏ
bừng, vẻ thẹn thùng, bảo sư bà trụ trì rằng: Thôi, chúng ta đi đi thôi”.
Một lão ni nghiêm trang cẩn mật, tuổi tác già
nua mà “mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng” rồi phải hối
thúc sư bà “đi đi thôi” trong một tâm
trạng như là dỗi hờn thì thật là đáng kinh ngạc.
Lãn Ông rất lúng túng, tìm cách “lưu họ lại không được, mới mang ra một ít hương tiền để cúng” rồi
hỏi: “Hai lão ni trọ tại nơi nào?”
Họ đáp: “Chưa có nơi nào”, rồi vội vàng từ biệt ra đi.
Lãn Ông đâu dễ chịu ngồi yên, ông “vội gọi một tên người nhà linh lợi bảo đi theo sau họ, mà không
cho họ biết…”
Thế rồi Lãn Ông nhớ lại mối tình xưa. Lỗi tại
ông. Ông đã nộp đủ lễ vấn danh, lễ nạp thái, vậy mà rồi vì một lý do riêng, ông
hồi cư về Hương Sơn quê mẹ và xa luôn người vợ sắp cưới của mình để bà phải mỏi
mòn trông đợi đến hôm nay mới bất ngờ gặp lại.
Rồi người thiếu phụ đó ra sao? Lãn Ông có dò
hỏi thì biết bà “thề chung thân ở vậy”. Nhiều người
đi hỏi cưới, bà cương quyết từ chối. Sau cùng, bà vào chùa tu.
Lãn Ông viết: “Tôi nghe biết vậy
thì tâm thần kinh loạn, than rằng: Vì ta bất cẩn trong việc này. Có thuỷ mà
không có chung, khiến cho người mang hận, mà ta mang tiếng là người bạc bẽo. Ta
bối rối không biết cách nào để gỡ cái mối ra, mới vội vàng đến Huê Cầu mà tìm
hiểu sự việc”.
Quả thật, bà đã từ hôn
nhiều người chỉ vì lòng bà chỉ có Lãn Ông thôi. Bà thà đi tu chớ không lấy ai
khác nữa! Bà nói:
“ Đã có người hỏi mình làm vợ thì mình
(coi như) đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà chồng bỏ…”
Trách chi Lãn Ông không tan nát cõi lòng, “tâm thần kinh loạn”.
Tha thứ
Để chuộc lỗi mình, và cũng là kính ngưỡng sự
tu hành của người xuất gia, ông chỉ xin bà cho ông được coi bà như “cô em gái nhỏ”, bảo dưỡng bà suốt đời từ đây. Vì bà đã
đi tu nên ông đề nghị cất cho bà cái chùa nhỏ, trong một cảnh vườn vằng vẻ yên
tĩnh: “Mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là để
báo ân, hai là để chuộc lỗi…”
Bà cố cầm giọt lệ:
“Quan nhân có hậu tình, còn tôi
chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, đâu có dám trách ai…
Nay tôi được biết tấm lòng tốt này cũng an ủi cảnh linh lạc vậy”.
Và bà đã từ chối.
Rồi Lãn Ông làm thơ. Phải, bởi vì đâu có thứ
thuốc nào sắc ba chén còn bảy phân mà chữa được cái bệnh của ông bây giờ! Ông
viết:
“Tôi lấy làm thương tình, mới giải lòng trong
một bài thơ” Bài thơ đó như
sau:
Hán Việt:
Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa,
Kim nhật tương khán khổ tự ta.
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ,
Song mâu xuân tận kiến hình
hoa.
Thử sinh nguyện tác can huynh
muội,
Tái thế ứng đồ tốn thất gia.
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã,
Túng nhiên như thử nại chi hà?
Bản Ngô Tất Tố dịch:
Vô tâm nên nỗi luỵ người ta,
Trông mặt nhau đây luống xót
xa.
Gượng cười khôn giấu đôi hàng
lệ,
Tóc bạc che mờ nửa mặt hoa.
Kiếp này hãy kết làm huynh
muội,
Kiếp khác xin hoàn nghĩa thất
gia.
Ai nỡ phụ ai, ai nỡ phụ,
Dở dang, dang dở biết ru mà?
Bản Bùi Hạnh Cẩn dịch:
Vô tâm nên nỗi lỡ người ta,
Nay lại nhìn nhau luống thẫn
thờ.
Một nụ cười tình, châu lệ lạnh,
Đôi tròng xuân cạn nét tài hoa.
Đời nay xin kết anh em ngãi,
Kiếp tới nên tròn phận thất
gia.
Ta chẳng phụ người, người nỡ
phụ,
Đành thôi như thế, biết sao mà!
Cảm động vì bài thơ “giải lòng”
đó mà bà đã tha thứ cho ông. Lãn Ông
viết:
“Từ đó thời thường qua lại hỏi
thăm nhau”.
Chuyện rồi kết thúc ra sao?
Tuổi hạc ngày càng cao, bà chỉ xin ông mua gỗ
ở Nghệ An đóng cho bà một cỗ quan tài. Vâng, phải đúng gỗ ở Nghệ An bà mới
chịu, vì đây là vùng Hương Sơn quê mẹ Lãn Ông (Lãn Ông quê gốc Hải Dương, nhưng
sống và thành danh ở Hương Sơn). Có lẽ bà nghĩ lúc sống đã không được nên duyên
vợ chồng thì lúc chết ít ra cũng được âu yếm nằm trong một cổ quan tài do ông
đóng cho bà từ thứ gỗ của quê hương ông.
Đó, chuyện buồn của Hải Thượng Lãn Ông, “Ông Làm Biếng” làng Hải Thượng, một chuyện thuỷ
chung, nhân hậu của một thầy thuốc, ông Tổ của ngành Y, làm ta thấy càng gần
gũi với ông hơn, càng quý trọng ông hơn.
BÃC SĨ ĐỖ HỒNG
NGỌC
No comments:
Post a Comment