Nguồn Gốc, Ý Nghĩa Và Biểu Tượng Ngày Lễ Giáng Sinh
Richard Phạm
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ
Thiên Chúa giáng sinh, Noel, Christmas hay Xmas (từ tiếng
Pháp Noël, là viết tắt từ gốc Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta”) là một ngày lễ kỷ niệm ngày Chúa Giê-su thành Nazareth sinh ra
đời của phần lớn người Cơ Đốc Giáo. Họ tin là Giê-su được sinh tại Bethlehem
thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái, lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của Đế
quốc La Mã giữa năm 6 TCN và năm 6.
Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày lễ Giáng Sinh (Noel)
Một số nước ăn mừng vào ngày 25 tháng
12, một số nước lại vào tối ngày 24 tháng 12. Theo Công giáo Rôma, lễ chính thức
là ngày 25 tháng 12 còn gọi là “lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi
là “lễ vọng”. Dù vậy, lễ đêm 24 tháng 12 thường thu hút tin đồ tham dự nhiều
hơn. Những người theo Chính Thống giáo Đông phương vẫn sử dụng lịch Julius để định
ngày này, cho nên họ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 7 tháng 1 theo lịch Gregory
Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas.
Chữ Christ (Đấng chịu xức dầu) là tước vị
của Đức Giêsu. Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và
Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng
Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Giêsu.
Chữ Christmas và Xmas đều có cùng một ý
nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos, Xpiơtós hay Xristos.
Người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho nguyên chữ Xristos hay Xpiơtós, rồi
thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của
đấng Christ.
Thời kỳ Giáo hội cơ đốc sơ khai (2, 3 thế
kỷ đầu công nguyên), lễ này được mừng chung với lễ Hiễn linh. Tuy nhiên ngay từ
năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt
được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Hội thánh La tinh thì mừng kính lễ ấy vào
ngày 25 tháng 12. Theo một nguồn khác thì tín hữu cơ đốc sơ khai không ăn mừng
lễ sinh nhật, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là làm theo thói quen của dân
ngoại đạo thờ thần tượng. Bởi lẽ đó họ không ăn mừng lễ giáng sinh của Đức
Jesus trong suốt ba thế kỷ đầu. Đến thế kỷ IV, những người Cơ đốc mới bắt đầu
muốn ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Jesus mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính
quyền La Mã phát hiện và bắt bớ bởi vì đến lúc đó, cơ đốc giáo vẫn chưa được
công nhận là một tôn giáo hợp pháp.
Những người La Mã, hàng năm ăn mừng “Thần
Mặt trời” đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người
cơ đốc đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh vào
đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại cùng một ngày với ngày lễ “Thần
Mặt trời” của người La Mã. Nhờ vậy, chính quyền đã không phát hiện việc
các tín hữu cơ đốc tổ chức ăn mừng Lễ giáng sinh của Đức Giêsu.
Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine
đã bỏ đa thần giáo và theo cơ đốc. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng “Thần
Mặt trời” và thay vào đó là ngày ăn mừng sinh nhật của Đức Jesus. Đến năm
354, Giáo hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành
lễ Giáng sinh của Đức Jesus.
Trong nhiều thề kỷ, những nhà ghi chép
Ki-tô giáo chấp nhận Giáng sinh là ngày Jesus được sinh ra đời. Tuy nhiên, đến
đầu thế kỷ 18, các học giả bắt đầu đề xuất một cách giải thích khác. Isaac
Newton cho rằng ngày Giáng sinh đã được lựa chọn để tương ứng với đông chí ở Bắc
bán cầu, từng được đánh dấu là ngày 25 tháng 12. Năm 1743, Paul Ernst Jablonski
người Đức lập luận ngày Giáng sinh được xác định ngày 25 tháng 12 để khớp với
ngày Sol Invictus trong tôn giáo La Mã cổ. Ngoài ra trước người Kitô giáo, nhiều
nền văn hóa và tôn giáo khác cũng ăn mừng ngày lễ cuối tháng 12.
Ý nghĩa từ “Merry Christmas”
Bản thân từ “Merry” đã gieo
vào lòng chúng ta một niềm hân hoan, cảm giác ấm áp hạnh phúc vì nó gắn liền với
dịp lễ Giáng sinh. Mặc dù các hoạt động tổ chức lễ Giáng sinh đã bắt đầu từ thế
kỷ thứ IV sau công nguyên, nhưng chỉ đến năm 1699, thì cách nói “Merry
Christmas” mới được sử dụng.
Người có công rất lớn trong nguồn gốc của cụm từ này là một sỹ quan hải quân vì
ông đã sử dụng từ này lần đầu tiên trong một bức thư thân mật vào năm 1699. Cụm
từ này xuất hiện lần thứ hai vào năm 1843 trong một tác phẩm của Charles
Dickens
“ Bài hát đón mừng lễ Giáng sinh”.
Trong dịp lễ giáng sinh, không chỉ có đạo
Thiên chúa mà hầu như tất cả mọi người dù ở các giai tầng hay tôn giáo khác
nhau cũng đều gửi đến nhau lời chúc
“Merry Christmas”.
Trong cụm từ Merry
Christmas,
“Merry” có nghĩa là niềm vui
còn
“Christmas” có nghĩa là các con
chiên của chúa (cách dùng trong tiếng Anh cổ).
Nhiều người sử dụng từ “Happy” thay
cho “Merry” để chúc nhau trong dịp giáng sinh. Cụm từ “Happy
Christmas” trở nên phổ biến trên toàn thế giới vào thế kỷ XIX, khi nó được
sử dụng bởi chính nữ hoàng Anh Elizabeth II.
Trong tác phẩm gốc được viết vào năm 1823 của nhà thơ Mỹ Clement Moore, “Chuyến viếng thăm thánh Nicholas”, câu kết luận vốn là “Happy Christmas to all, and to all a good night” đã được đổi lại thành “Merry Christmas to all” trong nhiều ấn phẩm tái bản về sau.
Ngày nay, cách nói “Happy
Christmas” chỉ chủ yếu được sử dụng bởi các cư dân Ireland và Anh. Đôi khi
để rút gọn, nhiều người còn sử dụng từ Xmas thay cho Christmas. Tuy nhiên phải
khẳng định rằng, không cụm từ hay cách nói nào có thể phổ biến bằng cụm từ “Merry
Christmas”.
Chúc bạn có một mùa Giáng sinh vui vẻ và
hạnh phúc!
Biểu tượng Giáng sinh và ý nghĩa
Vòng lá mùa vọng
Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng
cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy.
Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí – dấu hiệu
của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi
các tín hữu Phái Lutheran ở Đức vào thế kỷ 16 để nói lên sự giao tranh giữa ánh
sáng và bóng tối.
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách
vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng
rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. 4 cây nến bao gồm ba cây màu tím – màu
của Mùa Vọng, cây thứ 4 là màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng,
hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).
Thiệp Giáng sinh
Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry
Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết
kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm
thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh
nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ
khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi
thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức
và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.
Quà Giáng sinh
Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi
người với gia đình và bạn bè. Đối với một số người, những món quà Giáng sinh
còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa
Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời
tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự
thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và
mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua (tức con Chúa Cha – Vua Nước Trời),
trầm hương tượng trưng Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh
Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa
Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người
dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ
lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và
những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Ông già Nô-en thường cưỡi xe tuần lộc
trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những
món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.
Nguồn gốc dùng hang đá và máng cỏ trong
lễ Giáng Sinh là do truyền thuyết Chúa sinh ra đời trong một hang đá nhỏ, nơi
máng cỏ của các mục đồng chăn chiên tại thành Bethelem.
Hang đá và máng cỏ
Ngày nay, vào đêm 24-12 tại các giáo đường đều có hang đá
với máng cỏ, bên trong có tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức mẹ Maria, chung quanh
có những con lừa, tượng Ba Vua, một số thiên thần, Thánh Giuse trên mái nhà có
ánh sáng, chiếu từ một ngôi sao hướng dẫn ba vua tìm đến với Chúa. Mọi người đều
hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh khỏi chiến
tranh, nghèo đói và bất hạnh.
Cây thông NOEL
Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức
từ thế kỷ 16. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được
dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài
cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi
mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công
phu cả bên trong và bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu. Đến thế kỉ 19 thì
cây Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Đến những năm 1820 cây Noel được
những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ.
Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường
sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim
tuyến lấp lánh, hoa… Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống
mới trong lễ hội đón chào năm mới.
Quà tặng trong những chiếc bít tất
Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến
tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá
nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống
khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các
đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các
cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.
Câu truyện thần kỳ kia được lan truyền
đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3
cô gái treo bít tất bên lò sưởi dể hy vọng nhận được quà.
Trẻ em hy vọng nhận được nhiều quà nhất.
Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn
là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất bên cạnh
lò sưởi để nhận quà như ước mơ từ ông già Noel.
Ngôi sao Giáng Sinh
Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rưc rỡ
đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của
tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo
đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa
đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực
rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía đông xa xôi
nay thuộc lãnh thổ Iran va Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần
theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp Thiên Chúa, sau gọi là lễ ba
vua.
Từ đó, 3 vị tìm theo sự dẫn đường của
ánh sáng để đến được thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước
mặt Chúa, dâng lên Chúa các vật phẩm trầm hương, mộc dược và vàng.
Ngôi sao trở thành biểu tượng ý nghĩa
trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ sang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở
tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn
tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.
Ông già Noel
Nguồn gốc của từ “ông già Noel” (Santa
Claus) hay thánh Nicholas bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kì từ thế kỉ thứ IV. Từ lúc còn nhỏ
thánh đã là một người rất ngoan đạo và đã hiến cả cuộc đời của mình cho đạo Cơ
Ðốc.
Thánh Nicholas đặc biệt được ca tụng vì
tình yêu đối với trẻ em và sự hào phóng của ngài. Thánh Nicholas là người bảo
trợ cho các thuỷ thủ, đảo Xi-xin-li, nước Hy Lạp và nước Nga và tất nhiên thánh
cũng là người bảo trợ của trẻ em. Vào thế kỉ thứ 16, ở Hà Lan trẻ em thường đặt
những chiếc giầy gỗ của mình bên cạnh lò sưởi với hy vọng là chúng sẽ được
thánh Nicholas thết đãi no nê.
Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas thành Sint Nicholaas, sau đó nói chệch
thành Sinterklaas và cuối cùng được những người theo giáo phái Anh đọc thành
Santa Claus.
Năm 1882, Clê-mơn C. Mo-rơ đã viết bài hát nổi tiếng của mình “A visit from St. Nick” (chuyến thăm của thánh Nick) và sau đó được xuất bản với cái tên “The night before Christmas” (Ðêm trước Giáng Sinh). Mo-rơ được coi là người đã hiện đại hóa hình tượng ông già Noel bằng hình ảnh một ông già to béo, vui tính trong bộ đồ màu đỏ.
Bộ quần áo đỏ của ông già Noel
Ông già tuyết chưa trở thành ông già tuyết,
vì ông vẫn mặc bộ quần áo tiều phu cũ kỹ, cưỡi ngựa mỗi khi đến cho quà bọn trẻ.
Một ngày nọ, ông địa chủ làng Nicholas đi ngang qua nhà ông, và lập tức
Nicholas bị mê hoặc bởi chiếc xe kéo với hai con tuần lộc xinh đẹp, xe có gắn
những cái chuông kêu lanh canh dễ thương. Ông địa chủ mặc một bộ đồ đỏ tươi, đầu
đội mũ lông cùng màu. “Mình cũng đáng để có nó lắm chứ, con ngựa nhà mình
đã quá già và hay than thở, còn bộ quần áo này thì không chịu nổi cái giá rét
mùa đông nữa”.
Nicholas tìm đến bà thợ may giỏi nhất
vùng để có bộ đồ đỏ mơ ước ấy. Nhưng lạ lùng thay, khi bộ đồ hoàn thành thì nó
to đến độ trông Nicholas như lọt thỏm vào trong ấy. “Ôi tôi đã làm hỏng bộ
đồ của ông rồi, nó mới thùng thình làm sao!“. ”Không sao cả, tôi sẽ ăn bánh kẹo
cho người to lên như bộ quần áo. Cái quần dài này ư? Tôi sẽ mang một đôi ủng
đen để bớt độ lùng xùng. Bà cứ yên tâm, trông tôi sẽ tuyệt vời trong bộ quần áo
này đấy!”.
Và như thế, ông già Noel đã ra đời như một
huyền thoại, nhưng đến mấy mươi năm sau, thì bộ trang phục đỏ gắn liền với huyền
thoại ấy mới có.
Còn bây giờ, hãy tự tin mà bảo với với mọi người rằng: “Ông già Noel trên
xe trượt tuyết với hai con tuần lộc là hoàn toàn có thật”.
Cây tầm gửi và cây ô rô
Hai trăm năm trước khi Chúa Giê su ra đời,
người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỉ niệm ngày Mùa Ðông đến. Họ thường hái loại
cây kí gửi này và dùng nó để trang trí cho ngôi nhà của mình. Họ tin tưởng rằng
loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật, từ bệnh
vô sinh của phụ nữ cho đến ngộ độc thức ăn. Những người dân ở bán đảo
Xcăngđinavi cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hòa thuận. Họ
còn đồng nhất hình tượng cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần
Frigga. Phong tục hôn nhau dưới bóng cây tầm gửi hẳn là xuất phát từ niềm tin
này. Lúc đầu nhà thờ cấm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng Sinh vì nguồn gốc
ngoại đạo của nó. Thay vì sử dụng tầm gửi, các cha đạo đề nghị dùng cây ô rô
làm loại cây dùng cho Lễ Giáng Sinh.
Cây trạng nguyên (Poinsettias)
Cây trạng nguyên được đặt theo tên của
Joel Poinsett đại sứ đầu tiên của Mĩ ở Mê-hi-cô người đã có công mang loại cây
này về nước Mỹ vào năm 1882. Quê hương của cây trạng nguyên là ở Mê-hi-cô. Vào
thế kỉ 18, người Mê-hi-cô coi cây trạng nguyên là biểu tượng của ngôi sao ở
Bethelem. Theo truyền thuyết cho rằng có một bé trai không có quà dâng lên Chúa
Hài Đồng nên em đã mang đến máng cỏ một chùm lá cây. Các bạn em cười chế nhạo
em, nhưng khi em đặt những nhánh lá dưới chân Chúa Hài Đồng thì những cành lá
đó biến thành những bông hoa đỏ rực rỡ rất đẹp.
Chiếc gậy kẹo
Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn
Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo.
Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi
kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết
hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Giê su. Màu trắng
biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của chúa Giê su. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng
trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây
thập ác. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của
Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà
Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt
cây gậy của người chăn cừu vì chúa Giê su chính là người chăn dắt con người. Nếu
bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của
tên chúa Giê su (Jesus). Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được
lễ Giáng Sinh nói về điều gì.
Bữa ăn reveillon
Tại Alsace, Pháp, bữa ăn này
phải gồm có tam hành là thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng)
và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây là do thủy thủ của nhà thám hiểm
Christophe Colomb du nhập từ Mehico.
Bài hát Giáng sinh
Bài Jingle bell do nhạc sĩ J.Pierpont
sáng tác nhưng lại đặt vào chùm bài hát trong danh sách những bản nhạc dân ca nổi
tiếng của Mỹ với tên gọi American song bag của nhà thơ Carl Sandburg. Bài này
không phải sáng tác cho đêm Noel như người ta lầm tưởng.
Lời bài hát đậm tính dân dã mộc mạc, diễn tả tâm hồn của
người dân Mỹ hướng đến một mùa tuyết rơi thật tốt lành. Hình ảnh ông Noel với
túi quà đồ chơi, ngồi trên xe tuần lộc với tiếng chuông leng keng diễn tả sinh
động, quyến rủ làm cho người ta thích nghêu ngao, nó vô tình trở thành bài hát
Giáng sinh. Bài Silent Night, holy night có xuất xứ từ Đức với tựa đề “Stille
Natch, Heiligo Natch” do linh mục Joseph Mohr sáng tác khi cuộc chiến
Đức – Áo – Phổ kết thúc. Sau này được phổ biến sang Áo, Mỹ… nay đã được dịch ra
gần 100 thứ tiếng.
Bánh Buche Noel
Tổ tiên người phương Tây thường nhóm củi
trong ống khói nhà, họ tin rằng lửa càng kêu lách cách thì các thần dữ sẽ tránh
xa. Ngày nay, tập tục biến dần vì không mấy nhà còn ống khói. Thay vào đó, theo
sáng kiến của một thợ làm bánh ở Pháp, năm 1875, người ta làm chiếc bánh ngọt
có hình cây củi để mọi người thưởng thức trong đêm Noel và lưu truyền cho đến
nay.
Chuông Thánh Đường
Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng
chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện
buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền
đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần.
Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu
Chúa ra đời.
Nến Giáng Sinh
Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến
đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến
thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một
đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các
ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại
cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà
để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.
Có một huyền thoại khác kể rằng một bé
trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhưng nhờ ánh đèn nến nơi cửa sổ phòng mẹ, đã
tìm được lối về đến nhà.
Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh
Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn
hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.
Giáng sinh ở Việt Nam
Ngày nay, ở Việt Nam, dù không chính thức
nhưng Giáng sinh dần dần được coi như một ngày lễ chung, thường được tổ chức
vào tối 24 và kéo sang ngày 25 tháng 12. Trong những ngày này, cây thông Nô-en
được trang trí ở nhiều nơi bằng cây thật (thường là thông ba lá hoặc thông mã
vĩ) hay thông nhân tạo làm bằng nhựa, không phải cây thông như ở các nước
phương tây thường là họ Bách tán. Trên cây, người ta thường treo các đồ trang
trí nhiều loại nhưng thường có những cặp chuông, dây giả tuyết, những chiếc ủng,
các gói quà tượng trưng và đèn trang trí giống như các nước phương Tây…
Lễ Giáng sinh ở Việt Nam là một dịp sinh
hoạt văn hóa cộng đồng nhộn nhịp, những đôi tình nhân âu yếm tặng quà cho nhau,
trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của Santa Claus, gia đình bè bạn rủ nhau hội
hè, yến tiệc, hát karaoke. Người Việt Nam rất thích thú các ca khúc Giáng sinh,
đặc biệt là Feliz Navidad.
Richard Phạm
No comments:
Post a Comment