Còn Đêm Giáng Sinh Nào Cho Em
- Kim Thanh
Em thương,
Mùa đông Portland. Đêm xanh và
gió lạnh từng cơn. Một góc trăng xa vàng vọt, bơ vơ giữa trời mênh mông đầy
sao. Đêm huyền diệu, ngát hương an bình và hy vọng. Đêm Chúa
ra đời, cứu chuộc nhân loài. Bên trong, tiệc mừng Giáng Sinh bắt đầu
với tiếng nói cười, chúc tụng rộn ràng và ánh sáng lấp lánh muôn màu từ
cây sapin đặt giữa phòng. Một lúc nào, qua hai tuần rượu, người bạn
tôi, một nhân viên thiện nguyện xã hội, đưa cho tôi xem một bức
hình đã cũ, úa vàng –bức hình của em– do anh ta chụp tại một trại
tỵ nạn Đông Nam Á mấy năm trước. Em đứng một mình, dáng buồn bã sau lớp kẽm
gai, tay bám vào cột sắt, đôi mắt to đen còn ngấn lệ ngơ ngác nhìn thế giới bên
ngoài. Quần áo xốc xếch, và tóc rối như mây bay bay trên khung ảnh, trong nắng
hoàng hôn nhạt nhòa. Tuổi em chừng độ mười ba, mười bốn, nhưng trông em gầy
còm, bé nhỏ như mới lên tám. Anh bạn cho biết em ở trại đã hơn năm năm, và đang
chờ trục xuất về Việt Nam theo diện không thân nhân. Tôi ngắm mãi hình em. Giờ
này chắc em đã về rồi, trôi dạt ở một nơi nào đó trên quê hương –nơi mà số phận
bất công và bọn người có quyền lực đang rình rập, vồ xé em với nanh vuốt của
loài thú dữ.
Tự dưng tôi thấy cổ
họng nghẹn đắng và tâm hồn rã rời. Giống như trước đây, khi hành quân qua những
thôn ấp điêu tàn tôi đã ôm trong tay các em bé bị thương vì mìn chông và đạn
pháo, hoặc nhìn những dòng sông ngập xác người –gục ngã giữa hai lằn đạn–
trôi lẫn với ngàn cánh lục bình vùi dập. Hoặc sau này, trong một bối cảnh khác,
bị tù đày đi ngang qua những trại giam thiếu nhi hình sự miền Bắc, Vĩnh Phú chẳng
hạn, thấy có nhiều em chỉ mới bảy, tám tuổi, đói lả, da bọc xương, bước đi xiêu
vẹo...
Không còn
lòng dạ nào tiếp tục cuộc vui. Trên đường khuya lái xe trở về nhà, trời mưa như
trút. Mưa, hay những dòng nước của em giàn giụa ở một khung trời nào thật xa
tôi, trong những đêm Giáng Sinh mồ côi, không có hoa đèn, quà tặng, câu hát, tiếng
cười. Không có bình an mà Chúa đã hứa. Không có cả hy vọng mong manh khi sáng
mai thức dậy em thấy mặt trời vẫn mọc trên biển Đông. Ngồi âm thầm giữa đêm
thâu, trong tiếng mưa gõ nhịp bên thềm và tiếng nhạc trầm buồn, mơ hồ như sóng
trùng dương xa khơi réo gọi, thầm nhắc những gian truân ngày cũ, tôi muốn chia
sẻ nỗi khổ đau ngút ngàn của em, cũng như của bao người đang bị lãng quên ở tầng
cuối địa ngục. Tôi muốn nói tôi thương em vô vàn vì những bất hạnh em mang, dù
chưa một lần gặp em, chưa một lần gọi tên em. Dù em, chắc chắn, sẽ không đọc được
những dòng này.
Trong một
nghĩa nào, những bất hạnh đó cũng là của tôi – một thuyền nhân may mắn
hơn em một chút – và của hàng vạn trẻ em khắp cùng thế giới, nạn nhân tội
nghiệp của chiến tranh và thù hận, tại các trại tỵ nạn Bosnia,
Rawanda, Somalia, Nigeria, Syria, Indonesia... và ở Hồng Kông
và Philippines, nơi vẫn còn những thuyền nhân chưa nước nào tiếp nhận. Và
tại Việt Nam trong những mùa chinh chiến cũ. Và bây giờ, dưới chế độ Cộng sản bạo
tàn –nơi tuổi thơ không bao giờ được học nghĩa của yêu thương.
Làm sao
tôi không nghĩ rằng trẻ em Việt Nam là hiện thân trọn vẹn của Đau Thương cùng cực?
Trong chiến tranh, từ ấu thời, các em đã biết mùi lửa đạn, chết chóc, chia lìa,
mất mát, vào tuổi mà ở Mỹ quốc trẻ em, kể cả trong các gia đình gốc tỵ nạn, được
nâng niu, chăm sóc, hưởng mọi thứ tiện nghi, ưu đãi trên đời. Sau 1975, các em
càng khốn khổ hơn. Cha vào tù cải tạo, mẹ tần tảo gánh gồng, bươn chải nuôi đàn
con trẻ dại. Các em thiếu ăn, thiếu mặc, suốt ngày chỉ được dạy bài học lao động
và căm thù. Và rồi một đêm, em đã vượt biển ra đi, một mình, như tôi cách đây
nhiều năm, bất chấp hiểm nguy, mang theo hy vọng và tương lai của cả gia đình.
Tại những trại tiếp cư, em ngóng chờ từng ngày, từng tháng, từng năm, trong cảnh
cơ cực, buồn nản. Cuối cùng, người ta lạnh lùng chối bỏ em, đày em xuống lại địa
ngục mà em đã khổ công đào thoát. Em chắc không biết truyện nàng Cúc Hoa, trong
văn chương nước ta, từ địa ngục được trở về dương thế, đoàn tụ với chồng, Phạm
Công, và hai con, nhờ lòng thương của quỷ Diêm vương –còn mang tính người
hơn lũ người tự nhận “đỉnh cao trí tuệ”, nhưng bởi khỉ mà ra. Hay nàng
Eurydice, kém may mắn hơn, trong thần thoại Hy Lạp, khi sắp đến bến bờ hạnh
phúc, đã vì lỗi của chồng, Orphée, phải quay lại địa ngục, nhưng cùng với tình
yêu trọn vẹn và nỗi tiếc nhớ khôn nguôi chàng dành cho.
Còn em?
Còn phi lý và nghiệt ngã nào hơn, hỡi em? Còn thiên đường xanh nào cho những ước
mơ bình thường, bé bỏng của em? Hồn tôi chợt xao xuyến, nghe nhức buốt trước nỗi
tuyệt vọng của em, và căm phẫn vì sự thờ ơ, ích kỷ của loài người.
Thế giới
thực sự quay lưng với em rồi. Người ta đã quá mệt mỏi, và phải công bình mà
nói, người ta không cáng đáng nổi nữa trước con số tỵ nạn khổng lồ ngày càng
gia tăng khắp nơi trên hoàn vũ bởi những cuộc chiến trăm lần tệ hại và tàn độc
hơn chiến tranh Việt Nam. Và còn lý do chính trị nữa. Gió đã đổi chiều, người
ta háo hức xin được bắt tay với các kẻ thù cũ, mới. Người ta hân hoan tháo bỏ cấm
vận.. Và mới đây, theo yêu cầu của bạo quyền Hà Nội, người ta đục xóa các
tấm bia tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình tại vài nước tạm
cư, Indonesia và Mã Lai, và trên biển cả. Người ta cho đó là thức
thời, là tiến bộ, là hòa bình, hòa hợp, hòa giải. Tôi gọi đó là khiếp nhược, phản
bội, đầu hàng. Và nạn nhân không ai khác là hàng ngàn đồng bào đáng thương còn
kẹt ở các trại, trong số có em. Nạn nhân của sự trở mặt ấy, em hãy tin tôi, chắc
hắn không phải là một số khá đông cựu thuyền nhân, cựu di tản, đã hay đang trở
về –nhưng khác với em–để du lịch, vinh quang, áo gấm về làng, tậu biệt thự,
làm ăn, hoặc ca hát, nhảy múa, nói dóc, hoặc chơi bời trên đất nước thảm
thương, rách nát mà ngày nào họ đã trốn chạy trối chết, như những bầy chuột.
Trong đôi
mắt mênh mông buồn thảm em nhìn, qua bức ảnh, đôi mắt đã ám ảnh tôi suốt đêm
Giáng sinh, tôi đọc thấy lời kết án nặng nề đối với lương tâm của nhân loại. Và
của tôi. Tôi có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ vì bất lực, không làm được gì để giúp
em thoát khỏi xích xiềng nô lệ và đọa đày. Tiếng nói của tôi, cũng như của một
số đồng hương đầy thiện chí đã cố gắng can thiệp với các chính quyền, tranh đấu
cho em, cho những người trong hoàn cảnh của em, chỉ là tiếng vọng trên sa mạc,
chìm mất theo sóng nhạc bềnh bồng của những đêm khiêu vũ mệt nhoài hay các buổi
tiệc tùng tưng bừng.
Thôi em,
hãy quên. Hãy quên. Và chấp nhận mệnh số tàn ác trời dành cho em. Nếu phải trở
lại địa ngục, hãy mang theo tình thương và cảm thông tràn đầy, ít nhất của một
người không quen đã bỏ dở bữa tiệc Giáng Sinh vì em, đang nghĩ đến em đêm nay.
Hãy trở lại như Eurydice thuở xưa. Hay như Hoàng Tử Nhỏ trong Saint-Exupéry,
sau lần lạc bước đến thế giới loài người, được hiểu thế nào là nhân ái và ác độc,
đã bình thản trở về tinh cầu của mình với trái tim rướm máu.
Và nhất
là, để tiếp tục sống, em hãy tiếp tục giữ hy vọng vào hạnh phúc,
như ngày em bước lên thuyền ra khơi. Dù hạnh phúc thật chưa hề có trên
cõi đời này.
Portland, Giáng
sinh 1995
Gửi lại, 22/12/2018
No comments:
Post a Comment