Người Thiếu Phụ Trong Mưa
Phùn Giữa Núi Rừng Việt Bắc.
NHỮNG ĐÒN THÙ SAU THÁNG TƯ ĐEN
Đoàn Trọng Hiếu
Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng
đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2
ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và
hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự:
- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc
tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng
đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở
tù. Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.
Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn
anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được
thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm
mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực
thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi
vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng
anh đã chết vài giờ sau đó. Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc phòng 2 Bộ tư
lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi
ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói:
– Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “ông Bác”. Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa.
Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí
cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ
trái phép .v.v.. Quả thật những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình
dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau
anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.
Giữa năm 78 vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”. Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết. Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa:
“Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi.”
Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu:
“Rồi một ngày mai không có anh, em không còn phải nhớ phải
mong – Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi – Cô đơn ngồi khóc một
mình – Không một lần kịp vuốt mắt anh – Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,
nhìn trông theo cánh chim từng đàn, để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu, bụi
thời gian lấp kín hồn mình, đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa, ôi ngày về còn
dài bao lâu – Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải khóc phải thương
– Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất, cô đơn phủ kín đời mình –
Không một lần kịp nói tiếng yêu.”
Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da
không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất.
Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị
tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã
đi tìm báo cho gia đình tôi biết. Nhờ vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con tôi ra
thăm . Tên Vinh cán bộ giáo dục của trại trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp
5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một
giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì
đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom
khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến
chở đồ thăm nuôi vào trại.
Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều
có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm
đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó. Gần tết năm 79 tôi chuyển
sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại, thời gian này
do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình đi thăm nuôi, nên sức
khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được
anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi. Hàng đêm tại các phòng,
anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được
pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội
trà lén mang về. Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng
đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy
tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại
thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục. Chúng bắt đầu xin anh em
chép và dạy cho chúng hát nhạc vàng, có tên còn xin đồ ăn và thuốc hút. Những
buổi lên lớp do tên Trung tá Thùy nói chuyện đã bị anh em phản kháng bằng cách
vỗ tay và cười, đã làm cho hắn ngượng ngùng. Chẳng hạn như lúc hắn khoác lác về
tên Phạm Tuân đã bay Mig21 lên, rồi tắt máy phục kích ở trong mây, đợi B52 đến
rồi nổ máy tiêu diệt, hay làm phụ lái cho tàu vũ trụ bay lên không gian nghiên
cứu bèo hoa dâu dể nuôi lợn .v.v. Rồi sang đến cuối năm 80 thì cũng chính tin đồn
anh em tù sẽ đi Mỹ, phát ra từ trong đám cán bộ, dân chúng quanh vùng quý tù miền
Nam và ghét cán bộ ra mặt. Anh em đã san xẻ thuốc men cho dân ốm đau trong
vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự
vụ.
Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang
tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ
trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản
cử 4 người đi “lao động đột xuất”. Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật
ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật
lạnh, lại thường có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng
và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ
đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một
thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi. Dường như đã được sắp xếp, người
thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa.
Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại
úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong
cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm
bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất
chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam.
Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và
lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy.
Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa
tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương. Chúng
tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu
chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn.
Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không
đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được
bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề,
một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh
và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự
khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt,
bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng
để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào
đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho
sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch
nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa
làm chị vừa tâm sự:
– Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ
nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết
từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết. Như vậy là họ đã dấu nhẹm
không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà
Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng
khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại
nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế.
Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng
tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ
quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi
dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến
chỗ rẽ, chị vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc
còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong
đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm
ngùi, đứng trông theo. Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt
lên trong kẽ răng:
– Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động khốn nạn này!
Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về
phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa. Đã quá nửa đêm, cái lạnh
đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số
phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của
vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi
bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.
Đoàn Trọng Hiếu
No comments:
Post a Comment