Tác giả TTKh của bài thơ Hai Sắc Hoa Tigon họa lại, viết
câu chuyện tình của mình:
1*-Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
*2-Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng
*3-Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi
*4-Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy
*5- Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm!
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
*6- Từ đấy thu rồi, thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ
*7- Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẻo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
*8-Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng, tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha
*9-Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi
*10-Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo, chân mây trắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò
*11-Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng.
Bài thơ thuật lại có một cô gái, một vài năm trước đây,
đã từng vương sợi tơ tình. Cứ mỗi hoàng hôn nàng nhặt cánh hoa tigon rơi
nhưng chẳng thấy buồn và từng “chờ người đến với yêu đương.” Còn về phần
chàng? Nàng nhận ra chàng đã tiên liệu tình duyên của họ sẽ trắc trở.
Chàng sẽ không lấy
được nàng. Nhiều dấu hiệu để lộ ra ý của chàng như thế(khổ 2 và 3). Nào “hay
ngắm lạnh lùng”, ngắm “dải đường xa vút bóng chiều phong”, ngắm “phương trời
thẳm mờ sương cát”, rồi “tay vít giây hoa trắng chạnh lòng”. Nào cử
chỉ vuốt tóc nàng và thở dài khi thấy nàng vui và bảo “hoa giống như tim vỡ.”Chàng
sợ mối tình của họ cũng sẽ tan vỡ thôi.
Trong khổ 4 và 5, nàng nói hồi ấy nàng không thấy cánh
hoa tigon là dấu hiệu của tan tác, của sinh ly nên cười tỉnh bơ đáp nói màu
hoa trắng là “chút lòng trong chẳng biến suy.” Cũng hoa tigon mà hai
người nhìn khác nhau. Chàng nhìn nó với màu đỏ và như hình trái tim vỡ, còn
nàng nhìn nó như màu trắng trong đầy hy vọng và tượng trưng sự chung thủy(chẳng
biến suy). Nàng đâu có biết đường tình, một lần đi lỡ làng, thì sẽ sống dưới
một “trời đau khổ chết yêu đương. ” Ngày ấy là ngày nàng lên xe hoa về nhà
chồng, “ngày vui pháo nhuộm đường” và chàng đã đi xa.
Khổ 6, 7 nói về cuộc sống dưới một “trời đau khổ chết
yêu đương”của nàng kể từ ngày cô nàng đi lấy chồng và người ấy đi xa. Trải
qua bao mùa thu lòng nàng giá lạnh. Chồng nàng biết nàng vẫn con thương nhớ
người ấy nên hững hờ, lạt lẽo với nàng. Nàng như sống hờ bên cạnh cuộc đời,
và “từng thu chết, từng thu chết”giấu trong tim bóng một người.
Khổ 8 và 9. Trở lại chuyện hiện tại, nhân đọc Tiểu Thuyết
Thứ Bảy, nàng mới thấy ai kia cũng ví cánh hoa xưa, hoa tigon trong chuyện
tình của chàng và nàng, như quả tim tan vỡ thắm đẫm máu hồng như nhận xét của
chàng trước đây, một mùa thu trước rất xa xôi, mà nàng không hiểu. Sự đã xảy
ra và nàng nhớ lại. Nay hiểu thì nàng đã “làm lỡ tình duyên cũ mất rồi”
Khổ thứ 10 mô tả nỗi buồn hiện tại của nàng sống trong
những chiều thu. Nàng sợ những chiều thu đầy cảnh buồn bã ấy. Nắng thì “phớt
nắng mờ”, Hoa thì “hoa đỏ rụng chiều thu.” Gió thì “gió về lạnh lẽo. Cảnh
xa tít ở chân trời thì “chân mây trắng.” Còn hình ảnh người yêu cũ thì cảnh
“người ấy sang sông đứng ngóng đò.”
Sau khi tuôn trào dòng tình cảm dành cho mối tình lỡ,
thì tác giả đi đến kết luận ở khổ thứ 11 với giọng bi ai luyến tiếc tự hỏi
nếu biết nàng lấy chồng thì “trời ơi người ấy có buồn không”, có nghĩ tới
loài hoa tàn vỡ tựa như trái tim vỡ máu hồng?
Câu chuyện tình trong bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gon(HSHTG)
của TTKh từa tựa như chuyện ngắn Hoa Ti Gon(HTG) của Thanh Châu. Tác giả Trần
Đình Thu quả quyết hai câu chuyện tình đó là một. Trong truyện HTG, Thanh
Châu viết chuyện tình của mình với người yêu là Trần Thị Vân Chung(TTVC) và
trong bài thơ HSHTG, tác giả T.T.Kh, bà TTVC, viết chuyện tình của
bà với người yêu là Thanh Châu.
Vì là tiểu thuyết nên Thanh Châu hư cấu làm 2 câu chuyện
có chi tiết khác đi. Trong chuyện HTG địa điểm yêu đương xảy ra ở Hà Nội.
Tuy cuối truyện ngắn Thanh Châu có nói người con gái, Mai Hạnh và họa sĩ
già Lê Chất là người đồng hương sống ở Hà Nội. Trong khi ở thơ HSHTG, chuyện
yêu đương xảy ra ở Thanh Hóa, nơi quê nhà. Trần Đình Thu viết nói “Trên
chuyến tàu định mệnh Hà Nội - Thanh Hóa vào một chiều cuối thu trước đó,
hai người đã gặp nhau để khởi đầu một mối tình đầy nước mắt.”
Trong Bài Thơ Thứ Nhât TTKh, kể câu chuyện tình của nàng
bắt đầu từ tâm hồn phơi phới với “lòng thơ nguyên vẹn một làn hương.”Nhưng
rồi một chàng nghệ sĩ(trong truyện ngắn của Thanh Châu, chàng là một họa sĩ
trẻ và nghèo) từ đâu đến êm ái trao cho nàng một vết thương tình lỡ do vì một
tai ác đưa đến “làm linh giấc mộng những ngày qua”, thổi tan âm điệu du
dương trước, và tiễn người đi bến cát xa”. Còn nàng ở lại vườn Thanh(xứ
Thanh Hóa) có một mình nàng và sống một cách buồn thảm: “yêu trăng lặng lẽ
rơi trên áo, yêu bóng chim qua, nắng lướt mành.” Trong truyện ngắn Thanh
Châu dựng lên hình ảnh cô gái con nhà quí phái tây học. Nhà có giàn hoa
Tây(hoa tigon của người Tây Phương). Hình ảnh cô gái nhà sang trọng vói tay
hái hoa tigon đẹp như tranh làm say dắm chàng họa sĩ trẻ. Họa sĩ chỉ trông
thấy nàng một vài lần nữa mà thôi rồi quên đi. Thanh Châu không kể chuyện
tình giữa 2 người ngay từ lúc mới gặp nhau như TTKh kể trong HSHTG và trong
Bài Thơ Thứ Nhất.
Thanh Châu chỉ kể
chuyện tình của chàng và nàng khi cô gái đã thành thiếu phụ và chàng họa sĩ
đã già và trở nên giàu có. TTKh kể chàng nghệ sĩ và nàng yêu nhau say đắm từ
thuở quen nhau rồi xa cách và nàng đi lấy chồng. Lúc đó tình của họ mới tan
vỡ. Nàng héo hon âm thầm đau buồn sống bên người chồng đã đứng tuổi mà nàng
không yêu(Biết đâu tôi một tâm hồn héoBên cạnh chồng nghiêm đứng tuổi rồi-Bài
Thơ Thứ Nhât.)
Có một sự trùng lắp là thơ của TTKh, thơ của Vân Chung
và truyện ngắn của Thanh Châu đều đề cập nhiều lần tới nùa thu. Họ đều yêu
mùa thu, có ấn tượng về mùa thu. Và trước đó và sau đó không có ai có ấn tượng
hoa tigon màu đỏ giống như hình quả tim vở thấm đẫm máu đào như thấy mô tả
trong thơ của TTKh và trong truyện ngắn của Thanh Châu. Chuyện tình HSHTG
và truyện HTG là một, Trần Đình Thu quả quyết.
Có điểm tương đồng trong truyện tình Màu Tím Hoa Sim và
truyện tình Hai Sắc Hoa Tigon đó là truyện tình của những cặp trai gái mới
lớn, đang phát thì, thể xác lẫn tâm hồn đang chín mùi, rạo rực. Họ thấm đậm
văn hóa Pháp tự do lãng nạn mới được du nhập vào cho nên câu chữ trong các
bài thơ tình của họ tự do để lộ tình của họ tuôn trào tràn trề lai láng.
Tình yêu của họ không thể nén ở trong lòng. Một khi đã yêu thì không thể
ngăn lại được. Hữu Loan ở cái tuổi 26, Lê Đỗ Thị Ninh(LĐTN) ở tuôi 17. Lê
Chất, trong truyện ngắn ở tuổi 24. Thanh Châu ở tuổi 25(1912-1937.
Wikipedia), Vân Chung ở tuổi 18(Trần Đình Thu). Ở cái tuổi yêu đương đắm đuối
đó, một khi tình trắc trở thì hận ngàn thu. Trắc trở trong tình sử MTHS là
tai nạn chết trôi sông của LĐTN, trong HSHTG là rào cảng gia thế chàng và
nàng. Gia thế hai người chênh lệch một trời một vực mà nàng không thể vượt
qua được. Nàng là con “dân Tây.” Chàng thuộc con dân dã. Nàng nuốt hận giữ
kín tình lỡ ở trong lòng:
“Anh hỡi,
tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu-
Bài Thơ Cuối Cùng(BTCC).” Trong BTCC, TTKh viết “Đã lỡ
thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn”ấy
Mà viết tình em được ích gì?”
Rõ ràng nàng muốn dấu, muốn chôn chặt tình lỡ ở trong
lòng. Tại vì có ai đem đăng Bài Thơ Đan Áo lên một tờ báo khác tờ tuần báo
Tiểu Thuyết Thứ Bảy(TTB), ký tên là TTKh nên nàng giận chàng và BTCC này được
nàng đăng lên TTB một năm sau(20.11.1937 đến 30.10.1938). Trong BTCC nàng viết
trách móc chàng:
“Chỉ có ba
người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
” Nàng trách “ai?” làm như thế là “giết đời nhau”. Nàng
nhắn chàng:
“Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng-
BTCC.” Nàng nhắn chàng hãy bán thơ của mình đi, để yên
nàng sống một mình. Cánh hoa(hoa tigon) tượng trưng lòng nàng nay nàng ghét
(“những cánh hoa lòng, hừ đã ghétThì đem mà đổi lấy hư vinh-BTCC”). Nàng
nói ngang trái thì đời hoa cũng đã úa rồi. Nàng cảm thấy “từng mùa gió lạnh
sắc hương rơi-BTCC.”Nàng sống trong cảnh “buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp-BTCC.”Nàng
oán chàng từng phút từng giây. Nàng sợ rồi đây nếu không yên được thì chỉ
có chết mà thôi. Tâm trạng bế tắt đến nỗi nàng kêu lên “đêm hỡi, làm sao tối
thế này? –BTCC.”Nàng than “năm lại năm qua cứ muốn yên Mà phương ngoài gió
chẳng làm quên-BTCC.”Nàng trách người làm vỡ lỡ duyên thầm kín chính là
chàng, anh của em! Nàng than “tôi biết làm sao được hỡi trời-BTCC. ” Kết luận
Bài Thơ Cuối Cùng, nàng viết
“Mưa buồn
mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người.”
Trái với Hữu Loan muốn “xổ hết”tâm can để vơi nỗi buồn
tình lỡ thì TTKh muốn chôn chặt tình lỡ không muốn cho ai nhắc đến. Vì thế
nên trên văn đàn Việt Nam mất hút tên tác giả TTKh sau 4 bài thơ được đăng.
Do đó cho đến nay người đời không biết TTKh là ai. Bài thơ thứ 4, Bài Thơ
Đan Áo, có nội dung như thế nào, đối với TTKh nó ghê gớm ra làm sao mà vì
nó, nàng muốn “cắt đứt dây chuông” tình lỡ? Độc giả tự tìm google mà
hỏi.
Giai thoại TTKh là ai? Theo người biết chuyện kể, thì
nhiều người cho TTKh là Thâm Tâm(TT). Thập niên 1960s, trong tạp chi Phổ
Thông, Nguyễn Vỹ viết một bài dài kể nói TT ngà ngà say cao hứng kể chuyện
tình của mình. Người yêu của ông là nữ sinh Trần Thị Khánh có lần ngỏ
ý muốn chàng đến xin cưới nàng. Vì chàng chưa có sự nghiệp nên tình lỡ.
Rồi nàng sắp đi lấy chồng, TT thức suốt đêm làm bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn
và 3 bài kia ký TTKh. Hoàng Tiến thì nói chính Trần Thị Khánh(TTK), người
yêu của TT làm các bài thơ.
Một số tác giả còn cho TTK là em gái họ của nhà thơ Tế
Hanh nữa. Dựa vào bài thơ “Cô Gái Vườn Thanh”ký tên là Nguyễn Bính, có người
cho TTKh là Nguyễn Bính. Rồi dư luận bàn đi tán lại lắng xuống.
Quãng giữa năm 1994 ông Thế Phong(TP) xuất bản sách “TTKh
Nàng là Ai”cho biết TTKh là Trần Thị Vân Chung đang sống ở bên Pháp.
“Chung” nghe giống như “Khánh”. Trần Thị Vân Chung có phải là Trần Thị
Khánh(TTKh?). TP dựa vào lời kể của bà Thư Linh, bạn thân của Vân Chung. Trước
khi sách ra đời, có nhiều bàn tán về tác giả TTKh. Con cháu của bà Vân
Chung ở Saigon báo tin cho bà hay. Bà Vân chung gởi thư ngỏ về từ chối thẳng
thừng nói “tôi không phải là TTKh” và từ bạn thân của minh là bà Thư Linh.
Dư luận lại lắng xuống.
Năm 2004 sách “Gỉai Mã Nghi Án Văn Học TTKh”ra đời. Tác
giả Trần Đình Thu không dựa vào người biết chuyện kể lại như trước kia mà dựa
vào phân tích văn học và tác giả để kết luận TTKh là ai. TĐT nghiên cứu tác
phẩm và tác giả nhà văn Thanh Châu, nhà văn Vân Chung và 4 bài thơ ký tên
TTKh để đi đến kết luận. TĐT còn phỏng vấn trực tiếp Thanh Châu những ngày
cuối đời ở Tân Bình-TPHCM để kiểm chứng nữa.
Tháng 6-2017, Ongtampy.
|
No comments:
Post a Comment