Hình chụp bãi biển Nha Trang cùng các bạn học lớp 11 (chị Tuyết người thứ 2 từ bên phải ) |
Sau chuyến đi chơi
Sài Gòn về chị em trở lại đi học, tôi vào học lớp Nhì (4) ở
trường Bình Hưng Phan Thiết, thầy của tôi lúc đó là thầy Trương Tiến
Hinh. Mới ở vùng Việt Minh về chưa bao giờ học tiếng Pháp vậy
mà tôi cũng bắt kịp bạn bè, tôi còn nhớ trong lớp chỉ có 3 người
thay phiên nhau đứng nhất, nhì, ba là anh Tùng, anh Trần Thiện Bậc và
tôi, người đứng thứ tư điểm quá cách xa chúng tôi.
Thời sự tạm ổn gia
đình tôi lại về quê nội ở Tuy Hòa, mà tôi có ông anh con bà dì
khá giả lại có đầu óc kinh doanh, ông nghĩ Tuy Hòa là vựa lúa ruộng
đất phì nhiêu, nhưng chưa có nhà máy xay lúa, nên ông ra Tuy Hòa thuê
đất của ông bà Hòa Thái, nơi đây trước kia là đồn lính tây trên quốc lộ I tương đối gần cầu Đà rằng và cầu ông Chừ, luôn cả chiếc xe
Pờ Rô chở khách, thuê tài xế và lơ xe chạy đường Tuy Hòa, Thạch Thành
nhờ ba má tôi trông coi quản lý giúp. Thuở đó người ta thấy nhà có
máy xay lúa có xe chở khách tưởng là giàu có nên GĐ chúng tôi bị
nạn.
Tôi còn nhớ như in
có một ông trưởng ty công an người Bắc thường mặc đồ vest màu trắng,
đi xe mô tô chạy ầm ầm, nghe nói người Tuy Hòa ai khá giả ông đều bắt
đến ty Công An tra khảo, chụp mũ kinh tài Việt Cộng rồi bỏ tù, ba tôi
cũng ở trong trường hợp này. Một hôm có người đến nhà máy xay
lúa nơi chúng tôi đang ở tìm ba tôi, ông vào từng phòng tìm khg thấy,
tôi nói ba đang ở bến xe, ông đến bến xe bắt ba tôi đi. Thấy vô lý má tôi đến ty công an khiếu
nại, minh oan chẳng những họ khg nghe mà còn hăm bắt má tôi.
(Ba tôi vốn ít quan
tâm đến tài sản và rút kinh nghiệm từ những ngày sống với Việt Minh
và bây giờ nên khi ở tù ra ruộng đất ai mua giá nào ông cũng bán,
vừa bán vừa cho, còn chút ít sau ngày miền Nam mất phần bị tịch
thu, phần thì hiến cho nhà nước để được yên thân), trước tình cảnh
này má tôi chẳng biết phải làm gì bồng hai em tôi vô Phan Thiết
lánh nạn, tôi phải ở lại Tuy Hòa vừa đi học vừa trông coi nhà máy ở
với ông quản gia già, má tôi gởi tiền cho GĐ người bạn thân gần đó
khi nào tôi cần thì đến đó lấy và lui tới với GĐ này. Hằng
tuần tôi đi thăm nuôi ba tôi bị giam ở Ngọc Lãng.
Phần thì buồn cảnh
GĐ mỗi người một ngả, một mình ở căn nhà rộng mênh mông trước đây
đông đảo vừa Gđ vừa người làm bây giờ còn lại mình tôi với ông cụ
già phần sợ ma, tôi học hành ngày càng xuống dốc. Ai cũng đồn
khu đất này có ma vì trước đây là đồn của lính Pháp, hằng đêm tôi
sợ quá cứ trùm mền kín đầu rồi ngủ thiếp đi lúc nào khg biết, có
lần rủ cô bạn học khác lớp ở Hòa Trị xuống Tp học lại ở với tôi
cho có bạn, nhưng cô ở vài bữa rồi dọn đi.
Nửa năm đầu tôi học
lớp nhất ở Phan Thiết, nửa năm sau về Tuy Hòa học trường Nam (gần khu
người Bắc di cư) Trong lớp chúng tôi có treo 2 tấm ảnh chân dung của
Quốc Trưởng (vua) Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm, một hôm thầy
giáo bảo lấy tấm ảnh Quốc Trưởng (vua) Bảo Đại xuống, chỉ còn tấm
ảnh TT Ngô Đình Diệm, chúng tôi chẳng hiểu vì sao sau đó mới biết là
nước khg còn vua nữa mà TT Ngô Đình Diệm lên làm lãnh đạo Quốc Gia.
Những năm sau này còn thi tiểu học, thi viết đậu rồi còn thi vấn đáp (oral) mới coi là đã
đậu bằng tiểu học, sau đó thi tiếp liên đậu mới được vào học trường
trung học Nguyễn Huệ. Vào những năm này Tuy Hòa còn rất đơn sơ,
nhà cửa tiêu điều sau chiến tranh vì “tiêu thổ kháng chiến”. TP mới bắt đầu mở mang chút đỉnh, các
nghĩa địa lần lần hốt cốt, các bờ bụi từ từ đốn phá, trường
Nguyễn Huệ được xây cất xung quanh là nghĩa địa chưa kịp lấy cốt
hết. Trường khai giảng năm đầu tiên chỉ có 4 lớp từ đệ Thất đến
Đệ Tứ, 4 lớp B1 học buổi sáng, 4 lớp B2 học buổi chiều. Chúng tôi là người tiên phong đến quét
dọn và khiêng bàn ghế vào lớp.
Hiệu trưởng đầu
tiên là thầy Đinh Thành Bài, ông rất nghiêm chỉnh nên lơ mơ là bị cấm
túc, trong chiến tranh các tỉnh liên khu 5 là bị thiệt thòi về học
vấn nên sau khi yên ổn mọi người được đi học trở lại với đủ mọi lứa
tuổi, tôi coi như loại nhỏ tuổi. Vừa thiếu trường thiếu thầy
lại thiếu sách vở, các thầy đến đây dạy trong những năm tháng này đa
số chưa học qua sư phạm, thiếu giáo sư nên học trò lên lớp nào thì
thầy theo lên lớp ấy, như năm học Đệ Lục thầy dạy Pháp văn thầy HHQ
thầy hơi có tuổi và dễ tính nên khg để ý đến những ranh mảnh của chúng tôi, chẳng
hạn thầy viết lên bảng bài tập đọc (lecture) mấy ngày sau thầy lấy
bài này làm bài chính tả (dicté) trong khi thầy đọc từng câu cho
chúng tôi viết thì thấy lúi húi soạn hoặc chấm bài khg nhìn xuống,
chúng tôi lấy vở ra chép, còn chia nhau trong bài đứa sai 1 chữ để
thầy khỏi nghi, ngày hôm sau thầy lấy bài chính tả này làm bài học
thuộc lòng (récitation) kêu tên trò nào lên bảng thì ráng thuộc 1 câu
rồi nghỉ để thở, thầy nói tốt cho 12 điểm thì đi xuống, lỡ hôm nào
thầy lo soạn bài quên nói tốt (bon) và cho điểm thì đứng chào cờ,
khg đọc được câu tiếp theo, vì biết thầy thường như vậy nên chỉ học
thuộc 1 câu là đủ vốn.
Năm sau thầy cũng theo
chúng tôi lên Đệ Ngũ, chúng tôi thương và kính trọng thầy vì thầy
rất mô phạm, giờ sử địa thì cho thầy dạy toán sang dạy thêm sử địa,
công dân, thầy cứ nhìn vào sách mà đọc, lúc sau nhìn xuống lớp thấy
mấy đứa nam sinh phóng cửa sổ đi ra (vì cứ nghĩ sử địa, công dân khg
quan trọng, về nhà “gạo” các môn chính để thi. Giờ nữ công
chúng tôi cũng đến lớp có chừng (vẫn coi thường môn phụ) đứa nào cũng lấy bài ra học khg đem
theo kim chỉ, giờ nữ công do cô Hoài Nhơn dạy có lẽ ai nói, nên thầy
hiệu trưởng vào lớp nhìn qua tình hình thầy hỏi chúng tôi kim chỉ
đâu, chúng tôi sợ quá, có đứa mang theo liền bẻ kim và đứa cầm khúc
đầu đứa khúc đuôi đưa cho thầy hiệu trưởng, cũng may thầy khg tinh
mắt, hay vờ làm lơ nên chúng tôi thoát nạn.
Anh văn với thầy BT,
thầy vốn khg được cao lớn, nên mỗi năm 2 lần thi lục cá nguyệt, mỗi
lần ra bài thi thầy mang kính đen leo lên ghế nhìn xuống đám học trò.
Năm ĐệTứ chúng tôi học toán với thầy TTT, giờ toán thầy kêu
học trò lên bảng giải phương trình ai khg giải đúng thầy đuổi ra hè
hành lang đứng hết giờ mới được vô, cũng may tôi dở toán nên thầy
chẳng kêu nên chưa bị đuổi ra lần nào.
Sách vở thiếu thốn
cà TP Tuy Hòa chỉ có 2 tiệm sách, có lần thầy bảo về nhà mua sách
địa lý để khỏi chép bài, ở tiệm sách chì còn 1 quyển, nên tôi và
bạn hùn nhau mua chung, cuối cùng đứa nào cũng phải chép bài.
Giờ Việt Văn thầy kêu đọc sách để làm tóm lược kể lại, tìm
khắp nơi mượn khg có quyển nào đọc được.
*** Xin xem tiếp phần 5 tuần tới.
No comments:
Post a Comment