CHỢ HOA- Tranh sơn dầu của tác giả Tiểu Tử
– Hãy hòa nhập vào hồn Việt Nam trong những chiếc áo bà ba, áo dài, cây dù màu, cái nón lá, lòng thảnh thơi khoác tay nhau đi trong nắng trong hoa… để thấy chỉ có quê hương là đẹp hơn cả (Lời tác giả)
Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở
Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu người ta cũng chê
là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng
thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra thì rất lạ: mắt sâu, má
hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khoé môi, mái tóc đã ngả bạc cắt
tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi
gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước ’’Cách mạng thành
công’’ và tôi của bây giờ – nghĩa là chỉ sau có mấy năm sống dưới chế độ gọi là
ưu việt – thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi.
Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi …tập nhìn tôi một lần, nhìn
kỹ, cho quen mắt!
Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte
d’ivoire (Phi Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới
thiệu tôi cho Công ty Đường mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà
họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!
Xưa nay, tôi chưa từng quen một người
da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm thô sơ về vùng Phi Châu da
đen như là: ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen
thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v.v.. Vì vậy, tôi
hơi …ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự
hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu
kia…
Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một
cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng này toàn rừng là rừng. Không
phải là rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa
thưa, thấp thấp cỡ mươi, mười lăm thước …coi khô hóc. Không có núi non, chỉ có
một vài đồi trũng, nhưng đồi không cao và trũng không sâu…
Nhà nước phá rừng trồng mía. Rung mía
ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư
xá v.v.. nằm cách nhau cỡ vài cây số.
Muốn về thủ đô Abidjan, phải lái xe
hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng
nhựa. Từ đó chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy
bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến.
Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một
nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đất đỏ, mỗi lần máy bay bay lên
đáp xuống là bụi bay …đỏ trời !
Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi
’’làm lại cuc đời’’ ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp
dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhứt làm việc chung với Tây trắng
(chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). Ở đây, thiên hạ gọi tôi là ’’le
chinois’’ – thằng Tàu – Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho
nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi …nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt,
trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc
tôi đối diện tôi trong gương như vậy.
… Một hôm, sau hơn tám tháng ’’ở rừng’’,
tôi được gọi về Abidjan để họp (Đây là lần đầu tiên được về thủ đô!). Anh tài xế
đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa.
Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế
nói:
– Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng
Patron (ông chủ) đi được rồi tôi mới về.
Ở xứ đen, họ dùng từ ’’Patron’’ để gọi
ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v.v… Nghe quen
rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết!
Tôi nói:
– Về đi! Đâu cần phải đợi!
Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng
toát:
– Tại Patron không biết chớ ở đây lâu
lâu họ lại huỷ chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh ở đâu đó. Máy
bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.
Rồi hắn đi ra xe. Tôi ngồi xuống mt
phô-tơi, nhìn quanh : hành khách khá đông, nhiều người ngồi với mt số hành lý
như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly v.v… Không phải họ không biết gởi hành lý,
nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô giành cho mỗi hành khách, nên số còn
lại họ …xách tay, cho dầu là nhiều món vừa nặng vừa cồng kềnh!
Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần
quay vù vù, cng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ
mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim…
Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng
thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: ’’Tại
mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy’’. Rồi lại nhắm mắt
lim dim… Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi ’’xuống
hò’’: ’’Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng… đang vươn lên ngọn
khói… á… lam… à… chiều…’’
Đúng rồi ! Không phải ở trong đầu tôi,
mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới
lùm cây dại có một người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá ! Người
đen đâu có năm võng. Tập quán của họ là nằm mtộ loại ghế dài bằng gỗ cong cong.
Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển …họ cũng ít
dùng nữa.
Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để
xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn
trẻ, còn cái võng là loại võng nhà binh của quân đi Việt Nam Cộng Hoà hồi xưa.
Tôi nói bằng tiếng Pháp:
– Bonjour!
Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười,
rồi cũng nói ’’Bonjour’’. Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:
– Anh hát cái gì vậy?
Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa
trả lời bằng tiếng Pháp_
– Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải
ông là le chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?
Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp:
– Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi
không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.
Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc
nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng
có một chút lơ lớ:
– Trời ơi! …Bác là người Việt Nam hả?
Rồi hắn vỗ lên ngực:
– Con cũng là người Việt Nam nè!
Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng
tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi
bỗng nghe mt xúc đng dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại ’’trôi sông lạc chợ’’
đến cái xứ ’’khỉ ho cò gáy’’ này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam
và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng.
Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt…
Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay
tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:
– Trời ơi!… Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!… Bác biết không?
Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp
bác, thiệt… con mừng ’’hết lớn’’ bác à!
Rồi hắn kéo tôi lại võng:
– Bác nằm đi! Nằm đi!
Hắn lại đống gạch ’’bờ-lóc’’ gần đấy lấy
hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói:
– Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người
Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi!
Đâu đợi tới bây giờ…
Hắn móc gói thuốc, rút lòi ra một điếu,
rồi đưa mời tôi:
– Mời bác hút với con một điếu.
Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng
hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự
kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một ’’cái gì’’ rất Việt Nam.
Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt
quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có
gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười:
– Bác bác nhìn ra nó rồi hả?
Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó
là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt
phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ
như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một
cách trìu mến:
– Của ông ngoại con cho đó! Ổng cho, hồi ổng còn sống lận.
Rồi hắn bật cười:
– Hồi đó ổng gọi con bằng ’’thằng Lọ Nồi’’.
Ngừng một chút rồi tiếp:
– Vậy mà ổng thương con lắm à bác!
Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi
nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng
nhiều kỷ niệm… Tôi nói:
– Vậy là cháu lai Việt Nam à?
– Dạ. Má con quê ở Nha Trang.
– Rồi má cháu bây giờ ở đâu?
Giọng của hắn như nghẹn lại:
– Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi Việt cộng vô năm 1975.
– Còn ba của cháu?
– Ổng hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi
hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà ni. Con sanh ra và lớn
lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi rut thúi gan luôn!
Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một
nét Việt nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn
con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ này, nhưng
vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác khác. Tóc xoắn
sát da đầu, mắt lồi môi dầy…
Tôi chợt nói, nói mt cách máy móc:
– Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!
Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng
nghiêm trang:
– Có chớ bác. Con có lai chớ bác.
Hắn xoè hai tay đưa ra phía trước, lật
qua lật lại:
– Bên ni của con là nằm ở bên ngoài đây nè.
Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ
về phía trái tim:
– Còn bên ngoại của con, nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè
bác.
Bỗng giọng hắn nghẹn lại:
– Con lai Việt nam chớ bác!
Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến
quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt tôi, một thanh niên Việt
Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi vói tay vỗ nhẹ lên vai hắn mấy
cái, gật đầu nói:
– ô ! Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy…
Hắn mỉm cười:
– Ở đây người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động
cư xử, nói năng không giống họ. Bà ni con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi
lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ
không?
Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến
dâng lên trong ánh mắt:
– Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một
người giống mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh này, thiệt là Trời còn thương con
quá!
Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói
mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai
cùng mt tâm trạng…
Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:
– Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy
bác lại đây là lúc con đang ca bài ’’Đường về quê ngoại’’ đó bác.
– Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.
Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên:
– Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu
lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho t, tô canh chua. Bác thấy
không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.
– Bác cũng vậy.
Tôi nói, mà thầm phục sự hiểu biết của
hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có mt người như vậy để chuyện trò từ đây về sau…
Có tiếng máy bay đang đánh một vòng
trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:
– Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy
hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.
Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh:
– Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết
’’Jean le vietnamien’’ hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.
Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ, rồi
giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:
– Ghé con nghe bác… Ghé con…
Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa
gật gật đầu, vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con…
Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má
của hắn ướt nước mắt. Tôi vi vã quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà
nghĩ thương cho ’’thằng Jean le vietnamien’’. Hồi nãy, nó ôm tôi, có lẽ nó đã
tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ…
…Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến
’’thằng Jean’’ rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để
cho tôi bớt cô đơn nữa!
* * *
Bây giờ, viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi:
’’Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiều
người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam?’’
’’Và có được bao nhiêu người còn mang mểnh trong lòng bài ca vọng
cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nằm nguyên trong đó?’’./.
No comments:
Post a Comment