Thầy Hoàng Thế Hào lúc nào cũng bận rộn dạy đàn, bên cạnh đó còn chương trình “Live TV” mỗi tuần, nên chờ bài thầy dài cả cổ. Tuần này, thầy gởi hồi ký: “Bên Một Giòng Sông” kể lại tình cảm nhẹ nhàng cùng những phá phách, chọc ghẹo, mến thương…với bao kỷ niệm vui buồn của tuổi học trò, chắc chắn sẽ làm mọi người ngạc nhiên thích thú.
Trân trọng,
Thukỳ.
Bên
một giòng sông
Đi
tới đoạn đường này, tôi bắt đầu thấy gió mát, một mùi nồng thoảng rất lạ của
thiên nhiên bốc lên từ một giòng nước; tai lại nghe thấy những âm thanh nhỏ
rung lên từ những lay động của biết bao nhiêu
cành
lá xanh tươi. Đường bắy đầu đổ dốc và chẳng bao lâu tôi đã trông thấy mặt nước
ở cuối con đường. Chúng tôi đi mau gần như chạy trên đường đá rộng này mà hai
bên mọc những cây bã đậu cao lớn mình đầy gai nhọn. Có đứa bạn bảo tôi: cây bã đậu là cây ngô đồng vì cây ngô đồng
không trồng mà mọc - đâu có ai mà trồng cây bã đậu trong vườn đâu! Có đứa bạn
lại bảo cây ngô đồng bên Tàu mới có, chứ nước mình chỉ có cây vông để làm guốc
hoặc là cây hoa gạo thôi. Tháng ba hoa gạo nở ra đỏ như những vết máu dính
trên cây, cũng là lúc khí trời oi bức làm cho những con chó phát điên. Còn
cái thằng bạn tên là Điểm đang đi bên cạnh tôi thì cho rằng cây ngô đồng chỉ
là cây ngô đồng, không phải cây gì khác. Tốt hơn hết là dẹp cái cây ngô đồng
của tôi sang một bên và nó chỉ cho tôi thấy dưới dốc có ba đứa con gái đang
ngược chiều đi lên, nói cười ríu rít.
Đó
là Túy, Hà và Kim Lan; ba đứa học cùng lớp tôi hôm nay mặc đồ bà ba, tay cầm
nón, xách guốc, xách giỏ. Ba đứa con gái thấy chỉ có hai con trai thôi đâu có
sợ gì. Hà nhăn răng cười dơ cao tay cầm guốc như muốn bổ xuống đầu tôi:
-Có
biết lội không mà đòi đi tắm sông, ông nội! ma da bẻ giò bi giờ.
Hà
ngồi cuối lớp bên con gái nhỏ tuổi hơn tôi nhiều mà lúc nào nó cũng làm như
nó là má tôi vậy; nếu nó là con trai tôi đã vật cổ nó xuống đất rồi. Hai đứa
kia không nói gì, lúng liếng mắt cười.
Độ
này tôi bắt đầu để ý đến mấy đứa con gái học cùng lớp. Ba đứa này luôn luôn
đi cặp mà luôn đi trễ giờ thầy Bùi. Lớp học thường đã học mười lăm phút mới
thấy chúng nó lấp ló ngoài cửa . Thầy Bùi dễ tính lắm, a hèm một tiếng lớn,
thế là chúng nó cười rúc rích như chuột rồi từng đứa hiên ngang đi vào. Rõ ràng
là con gái đẹp thì nó không ngán ai hết, kể cả ông thầy. Tuy thế chúng đi thật
sát vào bàn đầu chỗ tôi ngồi vì còn ngại cây thước khá dài của thầy có thể gõ
trúng. Hà đi vào trước rồi tới Kim Lan và sau cùng là Túy. Cả ba đứa con gái
mới lớn, năm trước ngực bắt đầu phồng lên, đen đen như là tụi nó có lận hai
trái mầng quân bên trong, thế mà năm nay đã biến thành ba kiều nữ. Túy đi sau
cùng, người mảnh mai, da trắng hồng, tóc nâu sợi nhỏ tha thướt, có khi quệt cả
vào tay tôi, biết có cố ý không?
Bỗng
thằng Điểm quay lại nói lớn làm tôi hết hồn:
-Túy
ơi, Túy đẹp quá trời , Hảo thương Túy rồi đó.
Cả
ba đứa con gái đứng phắt lại. Túy nhìn thằng Điểm rồi nhìn tôi, môi cong lên:
-Trò
Hảo, trò ăn nói gì bậy bạ quá vậy, tui méc ông thanh tra cho trò biết thân.
-Tôi
đâu có nói gì đâu, thằng Điểm mà!
-Trò
mới nói đó, ai cũng nghe hết, có chứng Hà với Kim Lan nè.
Hà
với Kim lan mỗi đứa một câu, giọng khoan khoái:
-Ừa
ừa đúng đó!
-Hết
đường chối cãi rồi!
Chết
mẹ chưa! tôi bước đi mà lòng buồn muốn chết. Lỡ ba đứa nó kéo tới văn phòng
mà nói với cha tôi thì rồi đời! Bao nhiêu niềm háo hức khi cái thằng Điểm du
côn mắc dịch này rủ tôi đi tắm sông lần đầu với nó tan theo mây khói. Ra tới
bờ sông tôi vẫn còn thắc mắc không hiểu sao Túy lại lộn tiếng tôi với giọng
thằng Điểm, mà không lẽ hai đứa kia cũng lộn nữa sao! Nhưng tôi cứ giận thằng
Điểm, tại sao lại đi kiếm chuyện với mấy đứa con gái để bây giờ thêm rắc rối.
Tôi nhất định ngồi bên bờ sông coi một nguời câu cá bằng hột bắp luộc, mặc
cho thằng Điểm nhào lộn dưới sông, không thèm nhờ nó tập bơi.
Liên
tiếp mấy ngày hôm sau, tôi hồi hộp chờ đợi cha tôi gọi lên trị tội, nhưng
chuyện đó mãi không xảy ra. Buổi chiều tôi thường đi học rất sớm, hay thơ thẩn
ở khu rừng cây trước cổng trường. Đó chẳng phải là khu rừng hoang vì có những
lối mòn quanh co xuống dốc mà chỗ thấp nhất là một giòng suối. Gần đó có vài ống
tre cắm sâu vào một tường đồi và lúc nào cũng có nước chảy ra; người ta gọi
là Giọt và đến đó tắm giặt. Phía ngoài bìa rừng có rất nhiều cây phượng, hè đến
thì nở hoa đỏ rực và lũ ve kêu ran.
Cái lũ ve này hình như được chỉ huy bởi một ve nhạc trưởng. Thỉnh thoảng
chúng đồng loạt im bặt, khiến không gian trống vắng làm tôi nghe được tiếng
suối chảy róc rách và tiếng những đứa trẻ nô đùa dưới những giọt nước; rồi một
cô ve giọng tốt độc xướng khá lâu, sau đó tất cả lại đồng loạt hòa tấu cái
khúc ca mùa hè rền rĩ nỉ non. Nhưng bây giờ còn lâu mới đến hè.
Lúc
trở lại lớp học, cửa hé mở, tôi thấy Túy ở trên bảng đen đang viết vẽ cái gì
đó. Cũng lạ thật, vì Túy không bao giờ đi học sớm như vậy, mà đi có một mình.
Trông thấy tôi, Túy tươi tỉnh hẳn, không cong cớn như bữa hôm nọ trên dốc bờ
sông:
-Túy
bỏ quên bài tập lý hóa ở nhà rồi, làm ơn cho Túy mượn cái xe đạp chạy về nhà
chút xíu đi.
Lớp
học vắng lặng, bàn ghế nghiêm trang quá, ánh nắng buổi chiều bắt đầu chiếu
nghiêng qua hai cửa sổ lớn làm cái áo dài trắng của Túy bừng sáng trước bảng
đen, làm cho câu nói đó một âm vang đặc biệt - vì đó cũng là lần đầu mà Túy xưng
tên với tôi với một cái giọng hết sức ngọt ngào.
Đã
nhiều năm chúng tôi cùng học một lớp. Chúng tôi biết rõ từng căn nhà của
nhau, cha mẹ và cả anh em những đứa bạn cùng lớp: nhà thằng Thân có cây me
cao lớn lắm, anh em nó không đứa nào dám leo, chỉ đứng dưới mà thọc. Nhà thằng
Quán có một vườn nhãn, tới mùa nhãn chín phải lấy rọ tre bọc các chùm nhãn lại
không thì lũ dơi phá hết. Đến nhà nó vào lúc nhãn chin, nó cho ăn không biết
đường về. Nhà thằng Quý không có gì hết, ở ngay bên cánh đồng; muốn cầy ruộng
thì đến đó mà cầy với cha nó. Cầy đã rồi thì cha nó bắt nhậu đế, hút thuốc
lào, say gần chết. Còn nhà Túy ư? Ngày nào tôi chẳng đạp xe qua: một căn nhà
kiểu Tây lại lợp ngói âm dương, bên toàn những cột kèo đen thui. Nhà có vưởn
sau rộng lắm, không biết bao nhiêu là loại cây mọc lỉnh kỉnh trong vườn:
nhãn, ổi, thị, khế, thanh long, thanh trà, bình bát, mầng quân và bao nhiêu
cây sứ cây lựu nở hoa tưng bừng. Nhưng không có đứa con trai nào dám đến: ở
căn giữa lúc nào cũng có cha Túy ngồi viết chữ Tầu trên cái bàn đen trước bàn
thờ, tường cũng treo toàn chữ với tranh. Cha Túy là ông Nho nói chữ thánh hiền.
Chúng tôi không đứa nào có được ba chữ lận lưng, sao mà dám đến.
-Vậy
chứ Hảo có cho Túy mượn xe không? Túy lặp lại.
-Ừ
được mà, nhưng xe của tôi có cây đồng dông, làm sao Túy đi được?
-Vậy
chứ Hảo không biết chở Túy à?
Túy
trả lời rất nhanh rất gọn, mắt nhìn đăm đăm khiến tôi choáng váng, ngần ngừ ấp
úng. Nàng bồi thêm:
-Chỉ
đi qua có một cái sân đá banh, vài ba con đường nữa là đến nhà rồi, Hảo chở
không nổi sao?
Lúc
ấy tôi không nhớ chuyện cũ trên dóc bờ sông, đôi mắt long lanh ấy còn hơn là
một mệnh lệnh. Tôi líu ríu đi tìm cái xe đạp...
Trời
ơi! Lỡ có ai quen mà trông thấy thì chắc chết, nên tôi đạp rất mau, có một
Túy ngồi sau, chứ có hai cô Túy thì tôi vẫn chạy như bay.
-Chậm
chậm lại đi, bộ sợ người ta thấy chở Túy sao?
Túy
ngồi sau cằn nhằn khiến tôi phải bấm bụng mà đạp chậm lại.
Đoạn
đường này trồng toàn cây muồn hoa vàng chen lẫn ít cây keo. Nếu đi bộ tôi hay
gỡ những cục keo dính dưới gốc cây, chính là những cục keo mà khi học tiểu học,
mấy đứa học trò thường hay liếm rồi chà lên giấy màu để dán khi làm thủ công.
Những trái keo thì lòng khòng như trái me, xanh xanh hồng hồng mà nhẹ hửng; nếu
thấp một chút là bị tôi tóm liền, ngon ơi là ngon. Hôm nay tôi cũng đi trên đường
này, nhưng không được thong thả; Một cô bạn nhiều uy quyền ngồi sau lưng mà
trong tôi chen lấn một cảm giác lạ lùng khó tả. Đi ngang qua trường tiểu học
tôi nghe tiếng Túy nói nho nhỏ:
-Hảo
còn nhớ thầy Xuân Hà không?
-Nhớ
lắm chứ! Cha tôi bảo bây giờ thầy cô ở trong Sài gòn, nhà gần trường Đại học
Sư phạm ,thầy vẫn dạy học.
-Hảo
có nhớ cô Bạch Liên không?
-Nhớ
chứ sao không! cô Bạch Liên hát hay, có bàn tay để múa đẹp như tay Phật.
Thế
rồi Túy không nói gì nữa, có lẽ Túy để yên cho tôi thả hồn về dĩ vãng của những
ngày nhỏ chúng tôi đi học bên nhau: Cả tỉnh chỉ có một trường tiểu học công lập,
khi chúng tôi học hết lớp nhất thì mới mở trường trung học. Năm nào cũng từng
ấy khuôn mặt, đứa nào cũng được lên lớp; Bẹt hạng là thằng Quý heo, vừa học vừa
cầy phụ cho cha nó vẫn cứ lên lớp như thường. Đứa nào ngồi yên chỗ ấy. Mấy
năm liền Túy ngồi bên trái tôi, ngay bàn đầu con gái, chỉ cách có một lối đi
rất nhỏ.
Thầy
Xuân Hà thường cho làm toán chạy; mười đứa đầu tiên làm xong, chạy lẹ lên nạp
bài thì có điểm tốt. Cũng có khi thầy kêu một đứa lên đứng sau cái bảng quay,
rồi cho cả lớp cùng làm một bài toán với đứa đứng sau bảng. Khi thầy hỏi “xong
chưa”, nếu tất cả đã làm xong thì đứa sau bảng sẽ quay bài viết bằng phấn của
nó cho tất cả mọi người cùng xem.
Tới phiên tôi lên bảng, khi tôi quay cái bảng
ra cho mọi người cùng xem, không biết tôi tính toán ra làm sao mà cả lớp cười
lên dữ dội - cười lâu và dữ dội đến nỗi tôi về chỗ ngồi, gục đầu xuống bàn bật
khóc. Chỉ có mình Túy là không cười. Tuý quay lưng đứng phắt dậy, giận dữ cau
có:
-Cười
gì mà cười người ta dữ vậy?!
Lớp
tôi vốn thương nhau, mọi người chợt hiểu đã làm tổn thương người bạn nhỏ nên
im bặt, im luôn. Cũng từ hôm đó thầy không cho làm toán trên bảng quay nữa.
Thầy
Xuân Hà còn có cây đàn guitar và là người đầu tiên dạy chúng tôi học hát đàng
hoàng sau cái bài không cần phải dạy mà đứa nào cũng hát được là bài quốc ca.
Cuối
năm lớp nhất, sắp tới phát thưởng. Túy và mấy đứa con gái được cô Bạch Liên
kéo qua lớp khác tập múa, lập tức mấy đứa con trai chúng tôi rủ nhau đi coi cọp.
Trong tiếng hát ngọt ngào của cô Bạch Liên, tiếng đàn guitar êm êm giữ nhịp của
thầy Xuân Hà, Túy đứng giữa đám, nổi bật trong bộ đồ Lèo với váy đen bó chặt,
áo chàm, khăn hồng, uyển chuyển trong điệu múa dùng rất nhiều cử động của hai
bàn tay.. . Khi buổi tập vừa xong , tôi năm đó còn bé lắm, ngơ ngẩn lờ khờ đến
bên Túy hỏi:
-Bộ
con gái Lèo đẹp dữ vậy sao?
Trong
bộ đồ Lèo chưa kịp thay, Túy không trả lời, hai hàm răng nghiến lại, vai co
lên, cổ rụt vào, nó quay đi nửa vòng cười mãi - vui lắm vì có một chú bé thật
thà khen đẹp.
Bây
giờ chúng tôi đang ngồi chung trên một cái xe đạp đi qua chốn cũ; ngoại trừ hàng
cây có cao lớn hơn, mọi thứ khác vẫn y nguyên như xưa: cái hành lang thật
dài, cái trống bịt da hai đầu treo ở ngay chỗ lớp tôi học vẫn còn đó. Mỗi
ngày ông cai trường cao lều khều đánh cái trống này mấy lần. Trước khi đánh
trống, sợ chúng tôi giật mình, bao giờ ông cũng gõ nhẹ vài tiếng vào tang trống.
Những đứa bé ham chơi như tôi rất mê nghe hồi trống tan trường ấy. Tiếng đầu
thật là mạnh, sau đó nhỏ dần và cứ thế lặp lại hai đợt nữa. Chắc ông cai trường
cũng thích đánh cái hồi trống cuối cùng đó nhất, nên ông đập mạnh lắm, mạnh đến
nỗi bây giờ nó vẫn còn âm vang rung động trái tim tôi. Đứng dưới cái trống
đó, tôi đã hỏi người đẹp đang ngồi sau lưng câu hỏi khù khờ ngớ ngẩn.
Giờ
thì tôi hát nho nhỏ cho Túy nghe bài hát năm xưa tôi đã thuộc lòng trong lúc
hai tay đeo vào khung cửa sổ ngóc đầu lên nhìn:
Nhớ
nước non xưa Lào
cùng
tiếng ca bên rừng,
nàng
khoe xiêm áo,
múa
hát ca vang lừng.
Nhớ
suối reo bên rừng,
cất
tiếng ca đồi thông,
nhớ
những cô đợi chồng ,
ngồi
dệt xà rông...
Chắc
là Túy cảm động lắm, nên một cái gì nằng nặng ấm áp đè lên sau vai tôi ..Vừa
mắc cở lại vừa sung sướng, tôi mong cho đường dài hơn lại vừa sợ người quen
trông thấy. May làm sao, vì tôi đi học quá sớm nên đoạn đường đi về nhà Túy
không gặp một đứa bạn nào.
Qua
hàng bông sứ, là vào tới sân. Một con chó màu trắng ra vẫy đuôi không sủa tiếng
nào. Không thấy cha Túy ngồi trên cái bàn đen viết chữ, có lẽ ông đã đi nghỉ
trưa, thiệt là đỡ khổ cho tôi. Năm trước có lần đến nhà Túy cùng với một lũ bạn,
trai có, gái có, mà tôi không nhớ là dịp nào, có thể là ngày giỗ mẹ. Túy đi nấu
chè đậu xanh đãi các bạn. Lúc ngồi chơi ở hiên nhà sau, cha Túy đi qua đi lại
ngắm nghía rồi hỏi tôi chuyện học hành.
-Dạ
thưa bác con đứng hạng cũng gần chót lớp.
-Vậy
là thua con Túy sao?
-Dạ
thua.
-Mày
là con phượng chứ đâu phải con gà, sao không ráng học hành chăm chỉ hả con?
Con
Hà lẻo mép liền đỡ lời cho tôi:
-Bác
nói trò Hảo là con phượng thì trỏ sẽ là con phượng; con phượng đâu cần ráng học
gi-ỏi đâu!
Ông
Tư Hướng không nói năng gì, đi lại gần con Hà, cú đầu nó một cái.
Mùa
hè năm rồi, chị Ngọc Châu của tôi về nhà kèm toán cho tôi, tôi có khá hơn
chút đỉnh, nhưng cũng còn xa Túy lắm, nên tôi không muốn gặp ổng, sợ ổng lại
hỏi chuyện học với hành! Bỗng tôi buột miệng nói:
-Sao
không hỏi tôi cái chuyện chơi?
-Hả?
cái gì? Hảo nói gì?
Túy
mang ra cho tôi một ly nước trà vừa hỏi lại cái câu không nghe rõ.
-Ồ
không! Túy kiếm bài tập lẹ lên rồi tôi chở về trường đi học..
Chủ
nhật trời trong và đẹp làm sao khi gió thổi xào xạc mấy ngọn trúc bên nhà chị
Thụy Anh. Tôi đi tìm mấy đứa bạn ở gần nhà. Thằng Điểm mắc phụ cha nó cưa gỗ
đóng đinh; thấy tôi nó nhăn nhó chỉ cái lưng cha nó - cái lưng to như bộ ván
gõ mà lấm chấm mồ hôi - rồi khoát tay lắc đầu. Tôi lẩm bẩm rủa: đồ Điểm lùn,
cứ đóng đinh mãi làm sao cao lên được!”Tới nhà thằng Hải, chị Đạm nó bảo: “đi
Phật tử rồi”Tôi lại thêm bực mình: “ra chùa thì chỉ hít khói nhang chứ mày được
cái giống gì!”. Chỉ còn một thằng nữa là thằng Lang; người nhà nó nói vọng ra
một câu cụt lủn: “biếc nó mô đâu!”. Có tiếng ôn nó léo nhéo:
-Chàu
rày á, đứa nào tợi kiểm thằng Lang, trên tay không có cuộng sách cuộng vở,
tau đập một cái chết bà tổ.
Ôn
nó không đi lại được nữa, chỉ ngồi trên giường. Ổng quên rằng cục cưng của ổng
còn làm biếng học hơn tôi một bậc. Trong lớp đứa nào cũng gọi lén nó là Lang sùng.
Tôi cũng đâm sùng máu, bứt một lá quỳnh của ổng ( chỉ dám bứt một lá ) đạp
nghiến dưới chân. Tôi vừa buồn, vừa giận tôi, ngủ gì mà ngủ quá trời quá đất
để tụi nó vuột mất tiêu.
Lang
thang một hồi, tôi cũng lại thấy tôi ra phía giòng sông, ngay chỗ bến phà.
Tôi đành ngồi đó chờ bạn tôi ra, mãi cũng chẳng thấy một đứa nào. Thằng Cho
chắc là đá banh với trường Lasan. Thằng Phú chắc đang đạp xe đạp ở đâu đây.
Còn ba cô nàng đó hay đi phà qua bên kia sông
lắm, mà sao hôm nay cũng biệt tăm. Con sông này lòng nhỏ, bờ rất cao
phía thành phố, bờ bên kia thấp là cánh đồng mênh mông, nước sông chảy mạnh.
Có người kỹ sư giỏi mới căng một sợi dây cáp lớn ngang giòng sông.Một cái
ròng rọc có thể chạy qua lại trên sợi dây cáp đó. Người ta dùng dây nối chiếc
phà với cái ròng rọc đó. Tùy theo góc độ hứng nước, cái phà hình chữ nhật dài
với bao nhiêu là người và xe cộ cứ tà tà nghiêng nghiêng mà qua lại, chẳng cần
máy móc chi hết. Có người bảo có ngày sợi dây cáp đứt thì phà sẽ trôi băng
băng về phía mặt trời Tây. Nhưng chuyện đó chưa xảy ra, mà nếu có thì cũng
còn có hai cây cầu gỗ thấp nối một cái đảo cát với hai bờ chận lại.
Lúc
ấy tôi đã chán coi người ta đi phà, nên bỏ đi xuống phía đảo cát. mấy đứa con
trai mà tôi nhớ mặt hình như học lớp dưới đang ở trên một cái thuyền lớn.
Không biết tụi nó đã chôm từ một buôn làng nào bên bờ sông. Chúng nó vừa hò
la vừa chèo chống bằng tay không! Tôi thích quá nhảy đại xuống chơi. Được một
lát thì thuyền ra xa bờ, tôi mới nhớ là tôi chẳng hề biết bơi lội gì hết; hai
ba đứa cứ đứng xông xổng, nều bây giờ thuyền lật thì chắc chết.
Thuyền
ra giữa giòng, nước trôi băng băng mà trong vắt, tôi thấy rõ cát đá rong rêu
và bắt đầu sợ. Tôi hỏi tụi nó là bơi đi đâu vậy, nhưng thằng nào cũng nhe
răng cười, hổng biết đi mô! Rồi cái điều tôi lo sợ đã đến: một thằng rắn mắt
đã rút cục điển nút lỗ lù ném đi từ lúc nào! nước phun lên trong thuyền và cứ
thế thuyền từ từ chìm xuống. Bấy giờ từng đứa một phóng xuống sông bơi vào bờ
nhanh như con rái. Cuối cùng lại, chỉ còn có mình tôi với cái thuyền lập lờ sắp
chìm. Thế là tôi cùng đường, cũng phóng ào vào giòng nước chảy xiết ấy.
Tôi
là đứa trẻ tỉnh thành, chưa hề biết bơi lội bao giờ nhưng tôi lanh và rất khỏe.
Hình như đó là những động tác thiên nhiên ẩn giấu trong tiềm thức: tôi đã chiến
đấu kịch liệt với giòng nước cuốn, bơi một hơi dài gần nửa con sông với sức mạnh
của một thiếu niên cường tráng. Vì không đúng cách, nên tôi đã phung phí sức
lực rất nhiều; cho đến khi bàn tay tôi đụng vào cát, tôi mới biết đã thoát chết
và đứng thẳng lên, lết chân vào đảo cát. Áo quần tôi đang mặc là áo quần đi học
hàng ngày đã ướt sũng và đôi dép xăng đan đã tuột khỏi chân. Tôi nhìn ra
sông, không thấy con thuyền đâu nữa và những thằng nhóc kia đã tụ họp chỗ cũ,
bờ bên kia. Hôm nay chúng nó đã chơi một trò chơi kinh khủng.
Tôi
bước chân trần trên đảo cát trắng ấy; gần bờ nước có những bụi cây, nhung lên
tới giữa đảo thì toàn là cát trắng tinh - cát ở đâu mà nhiều và đẹp đến thế
kia? Tôi bắt đầu cởi hết quần áo ra phơi trên cát ; sợ gì chớ? có ai ở
đây đâu. Lại một cảm giác lạ nữa khi tôi vốc cát lên người, khi tôi lắc mình chôn
tôi trong cát trắng tinh này. Tôi nằm ngửa nhìn trời, chung quanh tôi sóng vỗ
quay cuồng, tôi nghe được cả tiếng bọt nước vỡ khi đập vào bờ cát. Ánh chiều
nghiêng nghiêng, hất lên cây cầu gỗ cong cong một màu kỳ ảo. Lúc này thật mệt
mỏi nhưng dễ chịu quá, tôi chìm dần vào không gian êm ả.
Khi
tôi tỉnh dậy, hoàng hôn đã bảng lảng bên sông. Phía Tây nơi con sông chảy về
đó đỏ rực như một giòng lửa lay động; cây cầu trông càng đẹp lạ lùng hơn
trong màu lửa đỏ trên một nền xanh đậm, thấp thoáng bên sông đã có ánh đèn. Một
người đàn ông Thượng mình mẩy trần trụi với độc cái khố đi lảo đảo lắc lư
trên cầu, khi nghiêng bên này khi ngả bên kia; có lúc tưởng anh ta rớt xuống
sông rồi, nhưng anh ta vẫn không sao cả.
Tôi
mặc quần áo vào rồi leo lên cây cầu gỗ đi về nhà. Không còn đôi xăng đan, nên
cây cầu gỗ lâu năm thật là nguy hiểm với nhiều dằm gỗ và đinh cũ. Khi đi tới
tôi, anh Thượng đứng lại chìa tay ra, đôi mắt đỏ ngầu vô hồn. Tôi không bắt
tay anh ta mà bắt được cái mùi rượu cần nồng nặc thả ra từ cái miệng đã cà hết
răng cửa. Đi hết cây cầu đã khó khăn, bây giờ lại tới con đường đá dốc. Ngay
chỗ này đây, tuần trước con Hà đã dọa tôi : ma da bẻ giò. Đỡ quá hôm nay
không có con ma nào hết.
Trời
đã tối nhá nhem, chỉ riêng con đường buôn bán mới có đèn điện, tôi lò mò khập
khễnh đi trong bóng đêm.
Những cây phuợng êm đềm lả lướt lúc ban ngày, nay vuơn
những tay ra như dọa nạt tôi, nhưng tôi có sợ gì tụi nó đâu. Những cây bã đậu
như những người khổng lồ cúi xuống hỏi : lại mày nữa! sao chân què rồi? Mãi rồi
tôi cũng lết được tới nhà Túy rồi ngồi bệt trên cỏ bên lề đường mà xoa bóp
bàn chân đau đớn. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao tôi lại chọn nhà Túy làm chỗ
nghỉ chân, mà không phải là một chỗ nào khác.
Túy
đang làm bài, học bài gì đó bên ánh sáng của một cây đèn dầu lớn. Da mặt trắng
hồng lại càng rực rỡ hơn. Tôi nhìn thấy cuốn bài tập luận văn màu xanh của
tôi để trên bàn, tôi không hiểu sao hôm qua Túy cứ đòi mượn cho được. Bỗng có
tiếng chó sủa, chắc là tìếng con chó nhỏ; tôi thấy Túy bước ra cửa ngó quanh,
gọi con chó vào rồi tiếp tục làm bài ; có lúc cầm cái gương lên soi; tôi thấy hai cô Túy
nhìn nhau. Có lúc Túy lúc lắc cái gương, quay gương ra cửa nơi phía tôi đang
ngồi, hai con mắt mở lớn nhìn thẳng vào tôi. Bờ cỏ chỗ tôi đang ngồi khá cao
nhưng tối lắm, Túy chẳng nhìn thấy gì đâu, nên tôi cứ đăm đăm nhìn lại. Đó là
lần đầu tiên tôi dám nhìn kỹ đôi mắt nàng như thế. Nhưng tôi bỗng giật mình
vì thấy Túy cười với tôi - một nụ cười rạng rỡ như muốn nói “Túy biết Hảo
đang ngồi ngoài đường đó mà!” nhưng nụ cười chợt tắt, Túy đặt gương xuống viết
bài tiếp. Tôi bối rối nửa muốn lên tiếng nửa lại ngồi yên. Rồi tôi nấn ná ngồi
thêm để nghe tiếng côn trùng rên rỉ, lâu lâu có tiếng trẻ khóc và nghe tiếng
tim mình đập thịch thịch.
Hôm
nay giờ thầy Bùi mà không thấy ba cô Kiều đi học trễ. Thầy Bùi dạy Việt văn, nói giọng Quảng, tóc muối
tiêu, hớt kiểu bàn chải, trong khi những đứa con trai chúng tôi đều để tóc
dài. Thầy nói nhà thầy ở đường Hoàng tử Cảnh, Nha Trang, phải lưu lạc đến chỗ
khỉ ho cò gáy này gõ đầu trẻ. Tôi biết thầy là anh của một ông thi sĩ khùng
khùng mà làm thơ hay lắm. Thầy có khuôn mặt với hai con mắt giống y nhà thi
sĩ lớn đó – hai con mắt sâu, tròn to hó. Vậy mà tiểu sử của ông thi sĩ mát
dây với bao nhiêu là người viết không có nhắc tới thầy, mới lạ chứ?! Thầy
cũng dễ tính lắm, nhưng khi trả bài luận văn là lúc thầy bươi móc những lỗi lầm
ác ôn của lũ chúng tôi ra. Nhiều đứa con trai không biết cất mặt vô cái hộc
bàn nào cho đỡ mắc cở; nhiều đứa con gái tốc vạt áo dài lên che đầu kín mít.
Bây
giờ thầy trả bài luận: tả ngày Tết ở trong nhà . Thầy nói đứa nào cũng đã ăn
tết hơn một chục lần rồi, không có lý do gì mà không biết làm. Thầy có vẻ
khoái đề tài này lắm, nên đứa nào làm không đủ bốn trang giấy vở thì tự động
đi cấm túc ngày chủ nhật làm tiếp, khỏi khiếu nại lôi thôi gì hết.
Chúng
tôi thường làm luận đề luân lý hay văn chương. Luận đề văn chương nhàm chán lắm:
quanh đi quẩn lại mấy đứa con nít chúng tôi phải bình thơ của mấy ông già khú
đế, có ông đã mất từ thế kỷ trước mà từ tư tưởng đến đời sống khác xa chúng
tôi, thế mà cứ phải khen lấy khen để. Luận đề luân lý lại càng tai hại hơn
cho tôi. Có hôm thầy bắt bình giảng câu: “ Đường đi khó, không khó vì ngăn
sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”Gìờ ra chơi tôi thưa với
thầy rằng không biết ông Nguyễn Bá Học có dám bơi qua sông như thằng Điểm hay
là một mình vào núi như con không mà sao ổng nói nghe dễ ăn quá. Thầy cười
khà khà bảo: Bây đi kiếm ổng mà thách đố đi, chứ thầy không biết trả lời sao!
-Thầy
ơi! ổng chết lâu rồi làm sao mà tìm lại, tất nhiên là con hiểu ổng muốn nói
gì ,nhưng con chỉ muốn nói rằng các người lớn nói gì thì phải làm được, phải
nói cho thật, đừng xúi bậy trẻ con.
Có
khi lại là câu nói của một ông ba Tầu tên Vương Dương Minh: “người không có
chí như thuyền không lái, như ngựa không cương, trôi giạt lông bông không ra
thế nào cả.”Ngẫm đi ngẫm lại, tôi đúng là cái loại người bị các ông ấy nói
móc họng, hỏi làm sao tôi nuốt cho trôi bài luận. Giống như người làm quốc sự,
bị phe bên kia bắt được, nhốt trong tù bắt làm kiểm điểm những lỗi lầm, có
khác gì chửi cha mình. Thế cho nên những bài luận luân lý của tôi đã không được
điểm cao, còn bị thầy phê là gàn bướng.
Nay
năm sắp hết, Tết đã gần kề, thầy Bùi nổi hứng cho làm bài luận tả ngày Tết ở
trong nhà nên tôi cũng thấy dễ thở, tôi viết ào ào. Trong hai giờ trả bài tập,
không có đứa nào được thầy khen, chỉ toàn lãnh búa. Tôi đợi mãi không thấy
quyển vở màu xanh của tôi, hay là thầy đánh mất rồi. Cuối cùng thầy nói:
-Chỉ
có hai bài đường được là bài của cô nàng say với bài của thằng Bắc kỳ di cư.
Nhưng hai bài lại giống y nhau. Sao lạ vậy hè...Rồi thầy la lớn:
-Đứa
nào cọp dê đứa nào, khai ra cho mau.
-Con
không có (Túy trả lời rất nhanh)
-Con
cũng không có (tôi sượng sùng lặp lại)
Thầy
tròn mắt dòm qua dòm lại:
-Hai
đứa bây không có thì bộ thầy đui sao hả? Để thầy đọc từng bài cho cả lớp nghe
nè!
Thế
rồi thầy a hèm lên một tiếng rồi bắt đầu đọc bản án kinh khủng của hai đứa
tôi:
Tôi
là thằng Bắc kỳ di cư nhưng tôi yêu quê hương miền Nam, nghĩa là từ Quảng Trị
trở xuống, nên tôi thích dùng tiếng miền Nam. Đề tài thầy cho là tả cảnh sum
họp gia đình trong ngày Tết, nhưng ngày Tết thì phải về quê về nhà thì mới có
ý nghĩa, làm sao tôi tả được Tết trong Nam, trong khi nhà ở thường là nhà
thuê chật hẹp hay ở ké các cơ quan chính phủ. Thế nên ôi đã tả ngày Tết ở căn
nhà Hà Nội, nơi tôi sống tuổi ấu thơ, nơi có đủ anh chị em, chú bác cô dì cậu
mợ.
Bài
luận của tôi bắt đầu với những tràng pháo nổ. Cửa mở ra, khói pháo xông vào
cùng một lúc với mấy người bạn của cha tôi. Trên tay các bác ấy đều có phong
bao đỏ thắm, tiếng cười nói xôn xao cùng những lời chúc Tết đậm đà tình
nghĩa. Tôi bé mà khôn vặt, cứ luẩn quẩn ở phòng khách, nấp dưới một cành đào
lớn, bên mấy giò thuỷ tiên thơm ngát mà từ từ thu những tình nghĩa đậm đà ấy
đầy túi.Trên bàn thờ tổ tiên khói hương nghi ngút với bộ đèn nến sáng choang,
bao nhiêu là bưởi, cam, quít, với quả hồng. Con gà vàng óng mỏ ngậm bông hồng
đặt bên cạnh những khoanh giò lụa trắng tinh, một đôi bánh chưng xanh vuông vức
nằm kề lọ hoa huệ bằng sứ men lam, cùng với bánh mứt tưng bừng. Nhà trong chí
chóe với bài bạc: nào xóc đĩa cho lũ nhóc tì, tam cúc cho mấy choai choai,
còn già lão hơn thì sà vào mạt chược, tổ tôm. Cha tôi trịnh trọng trong cái
áo the – mà mỗi năm ông chỉ mặc một lần – đang khấn vái trước bàn thờ. Mẹ tôi
, chắc cũng giống bà mẹ ông Lưu Trọng Lư “nét cười đen nhánh sau tay áo”. Bà
không nhuộm răng đen , nhưng hai con mắt đen lóng lánh tất tả thu dọn
chào mời , khi xếp mâm ngũ quả, khi châm nén hương vòng. Hôm ấy bà thật vui,
thật đẹp trong áo dài vàng mỡ gà, đôi mắt tinh anh, môi cười cắn chỉ dưới cái
khăn nhung đen tóc vấn.
Thỉnh
thoảng có người đến gõ cửa xin đọc lời chúc Tết. Họ là những ngưới nghèo
trong y phục, nhưng tươi cười lanh lợi và vô cùng giàu có trong lời nói:
Các cô các cậu như
tiên
Cậu cậu mợ mợ bình yên một nhà
Mẹ
tôi cũng ân cần chúc Tết họ và vui vẻ trao một cái phong bao.
Tả
ngày Tết đang đầm ấm vui tươi như thế, tôi lại phang vào đó cái kết luận thật
là buồn; có lẽ vì thế mà bài luận mới chỉ được thầy coi là đường được: Cậu
tôi làm quận trưởng Võ Giàng, cậu còn trẻ măng, làm việc cho dân quên ăn quên
ngủ, không biết ăn hối lộ nên được nhiều người quý mến. Gần Tết năm ngoái, không
dùng công xa ,súng ống , cậu đạp xe lên tỉnh, nửa đường bị hai thằng gánh cỏ
chận lại, chúng rút súng dấu trong gánh bắn chết cậu, lại còn chặt đứt đầu,
trên ngực cắm một lưỡi dao với bản án trừng trị Việt gian phản động.
Tôi
đứng khuất trong góc nhà, nhớ thương người cậu ruột đẹp trai và lương thiện,
nhìn mẹ tôi vui tươi trong gia đình đầm ấm mà không dám nhắc: mẹ ơi, Tết này,
em trai của mẹ vẫn không về...
Giờ
thì cả lớp lắng nghe bài của Túy. Ngoại trừ nhập đề với kết luận là có khác,
thầy đọc tới đâu là tụi bạn cũng la làng. Bao nhiêu là cái miệng ngoác ra cười
cười nói nói khiến thầy phải đập bàn mới tạm yên. Túy úp mặt xuống cạnh bàn,
hai tay vòng lên che đầu, đôi vai rung rung. Tôi nghĩ là Túy lại khóc như tôi
bốn năm trước. Nổi điên lên tôi định quay lại sừng sộ bằng cái câu của Túy “cười
gì mà cười người ta dữ vậy?”Nhưng tôi chợt nhận ra: môi Túy hé mở, cái răng
nanh trăng trắng rung lên, đúng là Túy đang cười. Thế là tôi vỡ lẽ ra ngay.
Túy ơi, sao ác quá vậy; bài luận đó là bài của thằng Bắc kỳ, đọc lên ai mà chẳng
biết. Hai cô bạn than là Kim Lan với Hà còn lăn đùng ra mà cười, sao Túy cứ
chép y chang?
Thầy
Bùi hết ngó tôi lại ngó Túy, hai con mắt tròn láu lỉnh, miệng cười cười phán
một câu xanh rờn:
-Bây
giờ thì mượn đỡ bài vở, mai mốt mượn tới tiền bạc rồi nhà cửa xài chung cũng
không biết chừng!
Có
nhiều đứa cười ré lên, hai vai Túy càng rung động mạnh, riêng tôi ngu quá là
ngu, mãi mới hiểu thầy nói cái gì!
Những
ngày sau đó bọn con trai vẫn êm, vẫn bình thường đối xử với tôi, nhưng bọn
con gái thì không; tất cả lũ chúng nó gọi ngay tôi là ông Túy. Đứa xấc xược gọi
giật giọng:
-Ê,
ông Túy..
Đứa
làm bộ lễ phép:
-Thưa
ông Túy đi học..
Đứa
láu cá nhất hạng là con Hà, chắp hai tay, cúi đầu nhái tiếng Bắc kỳ của tôi,
giọng quê đặc:
-Con
nạy ông Túy ạ!
Đáng
lẽ phải gọi Túy là bà Hảo mới đúng, sao chúng nó lại cứ nhè tôi mà chọc ghẹo?
tụi con gái chơi phe đảng quá! ngày nào tôi cũng phải đi học, biết trốn chỗ
nào!. Trong khi đó cô nàng say cứ tỉnh bơ; một bàn tay che nửa mặt để thầy không
trông thấy, lâu lâu đưa sang một con mắt lén cười trên cái đau khổ này!
Qua
Tết chị Ngọc Châu gửi thư về cho tôi: em phải cố học lên nhé. Cậu là ông đứng
đầu tỉnh về việc học đấy. Nếu em thi trượt lần này thì cậu còn mặt mũi nào mà
khiển trách mấy ông giáo lười. Chị nói tôi đâm lo, thấy đã trễ quá rồi, thế
là tôi càng rét run lên.
Cái
chơi thì tôi thật là tài, chẳng cần bái sư, mà không phải là có nhiều người
đánh đàn, ca hát vẽ vời hơn tôi đâu. Đụng tới học thì tôi thấy đầu nó đặc như
cục chì. Ngày Tết, lửa trại không có tôi đứng ra tổ chức thì hỏng bét, nhưng
ngày thường phải kiên nhẫn lắm tôi mới tàm tạm quơ quào được ít bài toán hình
học đại số.
Hết
kỳ đệ nhị lục cá nguyệt là chúng tôi sửa soạn đi thi. Trường thi ở tận một tỉnh
khác cách xa tới hai trăm cây số. Đứa nào con nhà khá giả thì đi máy bay hàng
không VN. Đứa nào nghèo thì đi xe đò. dù sao chúng tôi cũng rủ nhau đi từng
nhóm. Chúng tôi đến trước vài ngày, gặp nhau trên đường phố tỉnh ấy thì vui vẻ
lắm, gọi nhau ơi ới cười nói vang trời..
Năm
đó lớp tôi có mười hai đứa thi đậu, không có tôi, mặc dù rất sợ cha tôi buồn,
tôi đã hết sức cố gắng để được trung bình mọi môn. Bảy đứa con trai và năm đứa
con gái thi đậu, Túy đậu bình thứ. Có nhà thi sĩ họ Trần thi trượt nhiều lần
đã thở ra một câu ai oán: Đệ nhất buồn là cái hỏng thi. Nỗi buồn của tôi lại
còn cao hơn nỗi buồn của nhà thi sĩ ấy tới mấy lần : tôi làm chị Ngọc Châu
tôi buồn, cha tôi mất mặt và tôi biết còn có một người con gái buồn thê thảm
hơn nữa! Thế là tôi đóng cửa ở lì trong nhà với nỗi buồn đến xanh xao mặt
mày.
Một
hôm tôi có việc bắt buộc phải đạp xe trên một con đường, tôi thấy bộ ba Kiều
nữ đi ở một con đường cắt góc vuông với con đường tôi đang chạy. Họ gọi tôi ơi
ới, tiếng gọi của Túy lớn hơn, tôi nghe rõ giọng thiết tha, nhưng tôi tủi nhục
quá cứ cắm đầu chạy miết. Tôi biết chắc lúc đó Hà sẽ không chọc ghẹo tôi nữa;
nó sẽ giữ xe đạp của tôi lại hỏi chuyện tương lai: “bây giờ trường đã hết lớp
học rồi, Hảo sẽ đi đâu học, sẽ làm gì?” không chừng nó sẽ mời tất cả ra quán
ăn nhà nó để đền cái tội bao nhiêu năm nay nó chọc ghẹo tôi. Còn Kim Lan nữa
chứ, lúc nào nó cũng chững chạc đàng hoàng, không chừng nó sẽ khuyên tôi phải
để ý đến bạn thân của nó một chút: có đi đâu cũng phải viết thư về cho Túy,
không thì Túy sẽ héo khô như cành hoa dưới nắng. Thế mà tôi cứ cắm đầu chạy,
thế mà tôi cứ lầm lũi đi, thế mà tôi cứ khăng khăng giã từ! Thấy tôi như vậy
, buồn rầu cha tôi cũng xin đổi đi tỉnh khác.
Tôi
đi như gã mộng du với hình ảnh ngôi trường chập chờn mờ ảo, hình bóng cô Túy
yêu kiều ẩn hiện trên giòng sông thơ mộng nước chảy ngược về hướng mặt trời
chìều.
Hoàng
Thế Hào
(Còn tiếp)
“Biên cương nẻo cũ ai về
Có nghe tê tái khúc hành quân xa…”
Xin
đón đọc phần 2 chuyện tình máu lửa kỳ tới.
|
No comments:
Post a Comment