Kính thưa quý thầy cô & các anh chị,
Cô Nguyễn Tuyết Lộc vừa xinh đẹp lại nhiều tài, Cô không chỉ làm
thơ trữ tính mà lại còn viết hồi ký, phóng sự…rất hay, sống động
nhiều tình cảm, xin mời đọc bài viết của cô tuần này: “Ngã Rẽ
Cuộc Đời” mà nhân vật chính được nhắc đến nhiều nhất là GS. Trân
Công Tín, người thầy kính mến của chúng ta và cũng bạn rất thân với
tác giả; mời đọc để biết thêm về cuộc đời của thầy qua ngòi bút
chân tình của Cô Tuyết Lộc.
Trân trọng,
Thukỳ.
NGÃ RẼ CUỘC ĐỜI
Nguyễn Tuyết Lộc
1975: năm đất nước chấm dứt chiến tranh, người thì vui mừng gặp lại
thân nhân, đón chào hòa bình, người đau khổ vì đi cải tạo dài ngày, người thì
lo lắng không biết số phận của mình sẽ thế nào, nhất là trong giới viên chức
từng làm việc cho chế độ miền Nam trước 75. Ngoài số phải đi học tập cải tạo,
số ở lại với ám ảnh được lưu dung hay không được lưu dung, không khác gì âm
hưởng “To be or not to be” của Shakespeare.
Số phận trớ trêu có khi cười ra nước mắt rất nhiều, nhưng tôi nhớ
nhất là những bạn thân cùng trường Quốc học, cùng lớp đệ nhất C. C1 (Pháp
văn) có Trần Công Tín, C2 (Anh văn) có Lê Khắc Cầm mà tôi nhắc trong bài viết
nầy, mỗi người rẻ một con đường khác nhau, và còn nhiều bạn bè cũ khác mang
những cái tên thỉnh thoảng gợi lên bồi hồi trong ký ức tôi như Thân trọng
Sơn, Vĩnh Thái ... mà trong chỉ một bài viết không thể nhắc hết được.

Trần Công Tín tuy chiều cao có phần “khiêm nhường”, bề ngoài
không nổi bật giữa bạn bè, nhưng là mẫu bạn chân chất nhất, hiền nhất, “gạo”
nhất trong nhóm của tôi. Vì hiền quá nên Sơn, Thái thường chọc ghẹo, thu cặp
sách của Tín trong giờ học làm chàng ta không có vở ghi bài, mặt cứ ngẩn ra,
dáo dác nhìn lui nhìn tới mà chẳng dám “hé” miệng hỏi, sợ bạn cười. Tín là
người bạn rất tốt bụng đã từng “cứu” tôi khỏi lâm vào tình trạng “thất tình”
bỏ ăn bỏ học lang thang thất thểu xuống bờ sông Hương ngồi tương tư (mà không
có can đảm nhảy xuống) làm cả nhà hoảng lên vì chỉ còn hai tháng nữa là đến kỳ
thi tú tài toàn phần. Hằng ngày tôi ôm sách vở từ Cư xá giáo sư Đại học 2 Lê
Lợi xuống nhà Tín ở 6 Nguyễn Công Trứ ôn bài, hai đứa được ba mẹ Tín dành cho
chiếc bàn dài trước hiên nhà để học. Học xong ra vườn hái mít cám ăn (ở quê
Huế còn có cái tên mà nói ra ốt dột lắm là “mít dái” vì nhìn cứ y chang!).
Tín thì chăm chỉ “tụng”, tôi thì được tiếng khá thông minh nhưng phải tội lơ
đãng, bị Tín kềm thúc nhắc nhở hoài, và cũng nhờ bạn hiền tận tâm cùng ôn tập
mà tôi đổ hạng bình thứ.

Xét về mặt học hành Tín chẳng thua ai. Từ giả trường Jeanne D’
Arc, Tín tiếp tục học lớp 9è, 8è, 7è (tức lớp ba, lớp bốn, lớp năm bây giờ) ở
trường tư thục Providence, đến trung học đệ nhất cấp thi vào trường công Nguyễn
Tri Phương rồi lên đệ nhị cấp Quốc Học, tháng nào cũng có bảng danh dự, năm
nào Tín cũng “ôm” phần thưởng đầy ắp sách vở không nhất, nhì thì cũng hạng
ba. Tín kể: “Lúc học ở Providence vui nhất là hằng tháng được cha hiệu trưởng
ViRy cao tới 2 mét người Pháp, rất nghiêm khắc, khi phát bằng khen, cha thấy
mình quá nhỏ bé nên bưng bổng, bồng nổi mình đưa lên cao cho bạn bè thấy và
cười thật vui vẻ.”
Tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 67, Tín học thêm Cử nhân văn khoa,
có thư khen thành tích học tập của Khoa trưởng Sư phạm Huế, rồi song song với
việc giảng dạy tại trường trung học đệ nhị cấp Nguyễn Huệ - Tuy Hòa, Tín ghi
danh học cao học Văn khoa Sài gòn năm 67 dưới sự hướng dẫn làm tiểu luận của
giáo sư Nghiêm Toản, nhưng phải qua sự sát hạch và phê chuẩn của giáo sư Nguyễn
Khắc Hoạch.



Chuyện đời không đơn giản toàn màu hồng. Cầm sứ vụ lệnh nhận nhiệm
sở vừa được một năm, Tín tham gia chấm thi tú tài và chấm thi đệ thất lần đầu
tiên và cũng là lần cuối cùng. Khoảng cuối tháng 9. 1968 nam giáo sư “toàn quốc”
nhận lệnh tổng động viên nhưng lại được ưu tiên hưởng chính sách biệt phái,
nghĩa là chỉ học ở quân trường 9 tuần rồi về dạy lại. Nhiều cán bộ miền Bắc,
đặc biệt trong các vị quản lý ngành giáo dục, tưởng lầm rằng từ “biệt phái”
chỉ một đối tượng đặc biệt, tin cậy, gài vào ngành để theo dõi, báo cáo về đồng
nghiệp. Ngày nay hẵn các vị đã biết là… oan Thị Kính. Cái oan đã giết cả đời
người ta. (thật khốn nạn vì cái nhìn thiển cận, ngu dốt). Quân đội Sài Gòn chưa thực sự cần những sĩ
quan gốc nhà giáo hoặc không biết bắn súng, hoặc có khi bắn bia mười phát
trúng một, đúng ra tình hình chiến sự chưa đến mức cần tới họ, nên huấn luyện
qua loa để dành khi tổng động viên, gấp thì phiên chế đẩy thẳng ra sa trường
cho gọn. Tín cùng các bạn lên đường vào quân trường Lam Sơn - Khánh Hòa để được
huấn luyện cùng với bạn bè của 11 tỉnh thuộc vùng II chiến thuật, trong số đó
có Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Duy Phiên, Thân Trọng Sơn. Nhưng oái oăm là vừa đến
nơi mới hay những người sinh năm 1943, 1944 thuộc tuổi đôn quân, sẽ không được
biệt phái, mà phải tiếp tục được huấn luyện ra sĩ quan, rồi ra đơn vị 2 năm.
Đúng là tin sét đánh với Tín vì Tín nằm trong diện đó. Như vậy Tín học tại
quân trường 8 tháng và ra đơn vị 16 tháng với lon chuẩn úy. Đơn vị Tín được
phân bố là phòng Nhất (coi về quân số) tại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 đóng ở
Pleiku. Tín nói: “Tuy về đây an toàn, nhưng mình không thích vì mình học văn
chương nay phải vùi đầu vào những con số. Làm giáo sư đệ nhị cấp được dạy
thêm, hưởng tiền phụ, hè đi coi thi, chấm thi, lại còn được phụ cấp đủ thứ
như tiền chấm bài, tiền coi thi, tiền đi đường, tiền ăn ở trong khi thực tế
mình ở nhà mình hay nhà bà con. Những ai có tú tài bán phần học 6 tháng quân
sự cộng thêm 9 tuần ở Quang Trung hay Lam Sơn sẽ mang lon chuẩn úy rồi cứ thế
mà lên lon, 18 tháng đương nhiên lên thiếu úy, 2 năm lên trung úy dù không
đánh đấm gì. Muốn lên đại úy phải có “công trạng”, còn không thì phải mất 7
năm. Được làm ở Phòng Nhất, không phải đi tác chiến, cũng mừng. Thực ra thì
đa số trí thức (cử nhân trở lên) đều được phân bố về các văn phòng thuộc trường
Võ Bị Đà Lạt, trường Chiến tranh chính trị, trường Thiếu sinh quân, các quân
trường. Mà dù có xui lắm ở đơn vị tác chiến đi nữa thì các ông lớn cũng sắp xếp
để bọn mình ở hậu cứ và nhờ dạy kèm cho con cháu họ. Thời đó cử nhân trở lên
rất hiếm. Theo quy chế tuy mình là chuẩn úy, chỉ số 250, lương khoảng 4000 đồng,
mà mình lại được hưởng nguyên lương của một giáo sư đệ nhị cấp 8000 đồng, chỉ
số 470 ngang với lương của đại úy.”



Thật không may vì mang danh sĩ quan, nên sau 75 Tín lại phải đi học
tập cải tạo trước ở Sơn Định, sau xuống trại 53 Ngân Điền huyện Sơn Hòa gần 2
năm. Như tôi đã nói, người ta quan niệm biệt phái nghĩa là chính quyền cũ cài
vào học đường để theo dõi, kềm kẹp giáo sư, học sinh… nên có tội, trong khi
các bạn khác học 9 tuần là binh nhì mà binh nhì thì được “xóa tội”. Học tập
xong, Tín quay về trường cũ, trường không nhận, lại phải quay về Huế nương
náu gia đình, đưa đơn xin việc, đến đâu cũng được trả lời “hết chỗ”, Tín tiếc
đã bỏ công đèn sách gần hai chục năm, chữ nghĩa cuối cùng chẳng dùng vào đâu!
Lên voi thì chưa lên mà xuống chó thì lắm lần, tang thương biến đổi không biết
đâu mà lường. Thân phận con người hóa ra như bọt như bèo, thời cuộc đẩy đưa,
không tự quyết được đời mình, khác xa nghìn dặm với những giấc mộng thanh
xuân ngày còn ở ghế nhà trường.
Tín là người rất ham học, không chính kiến, không tham vọng quyền
lực, trong con mắt bè bạn hiểu rõ Tín, thấy ước mơ lớn nhất, duy nhất mới tử
tế khiêm tốn làm sao là được đi dạy để sử dụng kiến thức bao nhiêu năm “dùi
mài kinh sử” của mình và cũng vì thương nhớ trường cũ cùng các em học sinh.
So sánh nào cũng khập khiểng, nhưng nhớ tới hoàn cảnh tai bay vạ gió, hàm chuẩn
úy không xin mà vẫn phải nhận và giấc mơ khắc khoải được đứng lớp mà bị từ chối.


Chưa dừng lại đó, hình như tất cả bất hạnh đều dành cho Tín, bạn
hiền của tôi. Năm 2013 Tín phát hiện bị K đại tràng, di căn gan, có hạch
trong bụng, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Nằm viện 11 tháng, phẫu thuật
3 lần, hóa trị 6 đợt, uống Xeloda 5 đợt, mang hậu môn giả bên hông, thể xác
vô cùng đau đớn, tinh thần lại hoang mang bấn loạn, hằng ngày “nhá” điện thoại
cho bạn bè trong ngoài nước, hay học trò cũ vì sợ điện thoại hết tiền không
mua kịp, rồi chờ họ trả lời, mong được nghe những lời an ủi để nghĩ là mình
đang sống, đang hít thở và còn sự thương yêu quan tâm giữa con người với con
người...Trong thời gian đi dạy được học trò yêu mến, khi đau ốm được bạn bè
ân cần thăm hỏi hổ trợ tiền bạc và tinh thần, vợ con hết lòng chăm sóc chu
đáo, có lẽ Tín được trời Phật phù hộ và nhất là được bác sĩ, y tá khoa ung bướu
ở bệnh viện Huế tận tình cứu chữa nên đẩy lùi được căn bệnh hiểm nghèo.
Chắc nhiều lần người bạn hiền lành của tôi cũng đặt câu hỏi không
biết mình thực sự đã phạm tội gì. Có những điểm trong cuộc đời của Tín làm
tôi nhớ lại anh chàng nông dân Lohann Moritz, nhân vật
của tiểu thuyết “GIỜ THỨ HAI LĂM” của C.V GHEORGHIU. Tất nhiên không hoàn
toàn giống hệt nhau, hoàn cảnh không cùng mức độ như nhau, nhưng xét cho cùng
cũng là dư vị bi đát của những thân phận bất lực giữa bão táp lịch sử, xô dạt
nhiều bề, cho đến khi nghiêng mình soi xuống dòng sông đời thì tóc đã điểm bạc.
Tôi lại lang bang nhớ tới Nguyễn Du với hai câu thơ thấm thía về
số phận Thúy Kiều mà ai biết tiểu sử của ông cũng biết ông gẫm chính cuộc đời
của mình:
“Xưa sao phong gấm lụa là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”
Tín tuy không xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc hưởng
cảnh nhung gấm lụa là như Nguyễn Du viết, nhưng số phận lận đận thì có thể ví
như thế. Và có phải vì thân phận lá hèn cỏ mọn, cầm bằng hạt bụi ven đường của
những con người cô thế mà Tín phải chịu cảnh:
“Bắt phong trần phải phong
trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
để có khi trong giấc mơ lúc đang nằm bẹp dí trên giường bệnh mà
nước mắt bỗng dưng ràn rụa mừng tủi vì thấy mình được đứng lớp. Dù chỉ là mơ
thôi!
Ngược lại với một Thân Trọng Sơn dạy ở Đà Lạt nay đã nghỉ hưu và
Vĩnh Thái, chủ nhiệm luật sư đoàn ở Huế, cũng đến tuổi hưu trí, được song suốt
trên đường đời và một Tín nhẫn nhục gặp nhiều đoạn trường da diết, không phản
kháng thì Lê Khắc Cầm “nổi loạn”, sự nổi loạn của một trí thức yêu nước, dấn
thân trước thời cuộc và biết lẻ xuất xử của một kẻ sĩ tự trọng.
Lê Khắc Cầm cũng là bạn cùng học chung lớp đệ tam, đệ nhị với
Thân Trọng Sơn và Trần Công Tín ở Quốc Học (trừ giờ ngoại ngữ phải học riêng
vì không đủ học sinh). Khi lên đệ nhất vì đủ sĩ số học sinh nên được chia làm
hai lớp, chúng tôi học C1 (Pháp văn), Cầm học C2 (Anh văn).
Lê Khắc Cầm là con trai
út trong một gia đình gia giáo của cụ ông Lê Khắc Tưởng và cụ bà Công Tôn Nữ
Thị Nhung. Từ con cái của cụ như ông Lê Khắc Phò giáo sư đại học Huế, chị Lê
Khắc Ngọc Khuê và chồng là anh Nguyễn Nguyên giảng dạy ở trường Phan Châu
Trinh Đà Nẵng, chị Lê Khắc Ngọc Mai, quản lý thư viện trường Đồng Khánh Huế,
đến con dâu là chị Lê Liên, giáo sư trường Quốc học – vợ của thầy Lê Khắc Phò
- đều rất khí khái, có phong độ tri thức, được bạn bè và nhiều thế hệ học
sinh sinh viên Huế quý mến.
Theo tập tục xưa mỗi khi
nhận nhiệm sở ở một địa phương thì vị quan chức nầy thường tổ chức cuộc gặp gỡ
với thân hào nhân sĩ, và ngược lại những nhân sĩ có học thức cũng có tục ra mắt
quan địa phương mới. Một chi tiết rất đáng chú ý nói lên tính cách thâm trầm
của cụ là trước khi xảy ra sự kiện tháng 8.1945 cũng như ở các địa phương
khác, chính quyền Việt Minh có chính sách kêu gọi sự hợp tác của quan lại triều
Nguyễn. Nhiều quan lại huyện xã “qua đêm” bỗng trở thành chủ tịch ủy ban
kháng chiến chống Pháp. Thân sinh của Lê Khắc Cầm một mặt không phản đối việc
trả lại chức vụ, quyền lực địa phương, một mặt thẳng thắn từ chối phục vụ
chính quyền mới. Ngày đó một thái độ như vậy có thể dẫn tới những hậu quả vô
lường cho bản thân và gia tộc. Điều ngạc nhiên với nhiều người là chính quyền
Việt Minh làm ngơ cho cụ đưa gia đình quay về Huế an toàn. Cụ mất sau 1975,
khi tinh thần vẫn còn minh mẫn. Tôi được biết sau thời gian ngắn sống dưới
chính quyền cộng sản, và rất có thể với kinh nghiệm tiếp xúc trước đó, cụ đã
từng nhận xét “không biết răng thằng Cầm rất thông minh mà lại theo cộng sản…còn
con cháu phải dặn nhau nhớ một điều không ai lật đổ được chính quyền cộng sản,
đừng manh động với chính quyền cộng sản vì qua kinh nghiệm của bố, chính quyền
cộng sản chỉ tự tiêu tự vong!” Và đúng như lời cụ nói, chỉ vài năm sau đó các
nước Đông Âu và Liên bang xô viết quả nhiên “tự tiêu tự vong”. Cụ có một thái
độ khá đặc biệt đối với cậu con út độc đáo của mình: ngoài việc thừa nhận trí
tuệ, tri thức sáng láng của con, cụ lại tỏ ra lo lắng nhất cho con trai út mà
cụ gọi là “khắc bạc”. Và chính Cầm một lần nhắc tới bố, bỗng loay hoay chỉnh
kiếng cận – cử chỉ quen thuộc khi có gì bối rối của Cầm – tủm tỉm cười, nói:
“Kể ra ông cụ moi nói cũng chính xác thôi!”.
Năm 1996, một hôm tôi nhận
được điện thoại của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái:
- Có đồng hương Huế muốn gặp Tuyết Lộc ở cà phê 27 Nguyễn thị Diệu
nè.
Tôi hỏi:
- Ai rứa anh?
- Tuyết Lộc đến thì biết.
- Không quen Lộc không đến.
Cuối cùng Thái bảo là Lê
Khắc Cầm.
- À, Lê Khắc Ngọc Cầm..
Giọng Bắc mềm mỏng điệu
đàng như giọng con gái của anh Thái, ngạc nhiên :
- Lạ nhỉ, sao lại có Ngọc Cầm nhỉ. Khắc Cầm chứ.
- Thì trong nhà Cầm, các chị ai cũng Ngọc. Ngọc Mai, Ngọc Khuê,
Ngọc Giao… nên gọi luôn Ngọc Cầm cho vui.
Anh Nguyễn Quốc Thái là nhà thơ sáng tác từ những năm 60, cộng
tác với tạp chí Sáng tạo nổi đình nổi đám một thời ở miền Nam vào độ tuổi
chưa tới hai mươi. Nhiều người xem anh là một trong những nhà thơ phản chiến
đầu tiên bên cạnh nhà thơ Thái Luân (tác giả “Vùng tủi nhục”). Anh từng chủ
trương tạp chí Trình Bầy nổi tiếng một thời. Thơ của Nguyễn Quốc Thái được
đưa vào chương trình giảng dạy văn học ở một số trường Đại học Mỹ và Anh.
Nghe anh Thái nhắc đến Cầm,
tôi không ngạc nhiên lắm, vì thật ra tôi cũng đã có lần thấy Cầm từ xa ở chợ
Tân Định rồi. Khi nhận quà thuốc tây của anh Thạch, anh trai tôi, từ Pháp gửi
về tôi hay ra chợ Tân Định tìm gặp Trần Gia Phụng để bán. Trần Gia Phụng và
tôi cùng dạy Phan Chu Trinh Đà Nẵng trước 75. Phụng là người ham nghiên cứu,
thẳng thắn, không xu thời như nhiều người khác. Những ngày đầu quân đội tiếp
quản Đà nẵng chúng tôi phải dự các lớp học chính trị, nghe báo cáo về sự tiến
công thần thánh của bộ đội miền Bắc vào Nam, nghe Mỹ chạy, ngụy nhào… trước
khi dạy lại. Giới giáo chức trong lớp học ai cũng lo lắng về số phận của
mình, trong lúc đó Trần Gia Phụng “dám”phát biểu:
- Miền Bắc trên danh
nghĩa giúp Campuchia đem quân qua trấn đóng, như vậy theo tôi Miền Bắc đã xâm
lược Campuchia.
Tôi dùng chữ “dám” vì thời
điểm đó ai nói gì không đúng với tiêu chí học tập đều bị xem là “phản động”.
Phản động đồng nghĩa với đi học tập cải tạo “mút mùa”. Tiếng người hướng dẫn
buổi hội thảo tức giận, giọng Quảng Nam pha trộn lơ lớ giọng Bắc, gằn từng tiếng:
- Đồng chí nghĩ thế nào
mà nói Việt Nam xâm lược Campuchia hả? Việt Nam không xâm lược ai hết, Việt
Nam chỉ làm Nghĩa Vụ Quốc Tế. Rõ chửa?
Kể từ buổi hội thảo đó
tôi không thấy Phụng đến trường nữa. Phụng “mất dạy”, vào Sài Gòn và định cư ở
Canada. Mỗi lần nhớ lại câu chuyện nầy, tôi nghĩ rằng vấn đề không phải là ý
kiến khác nhau về vụ can thiệp của chính quyền Hà Nội vào nội tình Campuchia
– cho đến hôm nay những cuộc tranh cãi còn chưa thật sự ngã ngũ, chưa nói bản
thân sự kiện tòa án Quốc tế kết án nhóm Pol Pot – Ieng Sary cho thấy một số
dư luận phương Tây đã có thay đổi – mà ở sự khác biệt trong quan niệm về
tranh luận và tìm hiểu vấn đề của hai phía. Những người sống với lối tư duy gần
như một chiều ở miền Bắc không thể quan niệm nổi quyền tự do phản biện và
phát biểu vốn rất quen thuộc với trí thức miền Nam.
Tôi đưa danh sách thuốc cho Trần Gia Phụng, Phụng chỉ tôi:
- Tuyết Lộc biết Anh Thọ
dạy Toán Đại học Huế, Mai Duy Trung dạy Pháp văn Trường Kiểu Mẫu, Lê Khắc Cầm
dạy Anh Văn không? Cầm là tên Việt Cộng nằm vùng, trả thẻ đảng vào Sài gòn
trong lúc có triển vọng ở trong ban lãnh đạo thành phố Huế đó. Cầm, Trung và
Thọ cũng đứng bán ở đây nè, kia kìa. Trí thức miền Trung sau 75 vào đứng bán ở
đây nhiều lắm. Chợ nầy muốn bán thuốc tây phải đứng để khi công an rượt đuổi
thì chạy cho dễ, chợ thuốc tây ở Tân Định còn gọi là “chợ đứng” hay “chợ chạy”.
Lê Khắc Cầm bỏ Huế vào Sài
Gòn bán thuốc tây? Có gì phải ngạc nhiên, gặp thời thế, thế thời phải thế!
Bán thuốc tây cũng là việc lao động hữu ích bình thường, mà xem ra còn rất
phù hợp với khẩu hiệu “lao động là vinh quang” một thời ra rả trên đài phát
thanh và truyền thanh. Hình ảnh Cầm nhắc tôi nhớ đến một khuôn mặt thân thuộc
khác, Bửu Chỉ, em chị Hà Lãnh, vợ anh Hai tôi. Bửu Chỉ và Cầm cả hai đều là
con út của những đại gia đình có nhiều người ăn học thành đạt. Hai bạn thường
đùa với nhau cuộc dấn thân của họ là “Cuộc nổi loạn của những đứa con út”.
Theo tôi, từ “nổi loạn” có lẽ thích hợp với Bửu Chỉ hơn vì Chỉ tuy học luật
nhưng tính rất nghệ sĩ, có phần phóng túng và hoang dã, còn tính phản kháng của
Cầm là của một người trí thức cẩn trọng có thiên hướng về lý luận, chặt chẽ hệ
thống. Trong thời điểm sau 1975, một số người chạy đôn chạy đáo, vòng trong
vòng ngoài hay có người trên thì nịnh bợ quan chức có quyền, dưới thì chà đạp
bạn bè đồng đội cốt để lấy cho được một cái thẻ Đảng phòng thân, tăng tiến sự
nghiệp. Rất tiếc khi có người có chút thiện ý lắng nghe, mới hay chỉ là một mớ
đả đảo, hoan hô những khẩu hiệu hợp thời để tìm cơ hội tiến thân. Còn nội
dung lý luận, tri thức, nhận thức luận thì ô hô! Trí thức ơi là trí thức! Với
Cầm, từ tuổi hai mươi anh chàng với thân xác còm cõi, cặp kiếng cận dày cộm nầy
đã nghiên cứu triết phương Tây và say mê triết học Marx. Cầm đã thực hiện được
giấc mơ của mình, lý tưởng của mình, hăng hái nồng nhiệt theo chủ nghĩa Marx.
Có nghĩa là Cầm có suy nghĩ và có trách nhiệm với những gì mình hành động.
Vào những tháng đầu sau
75 Cầm được xem như một trong những trí thức trẻ tuổi có uy tín tại Huế. Đó
là thời điểm của những kẻ đang say men chiến thắng, đó là giai đoạn thỏa nguyện
của Cầm về sự nghiệp lý tưởng. Nhiều bạn bè hy vọng Cầm đang ở tuổi ba mươi đầy
tâm huyết sẽ tiếp tục làm một điều gì đó đẹp đẽ góp phần xây dựng Huế vốn đã
chịu nhiều khổ ải đau thương.
Một sáng ngủ dậy Cầm quyết
định trả thẻ Đảng. Quyết định nầy chắc hẵn đã nung nấu, đã dự tính từ lâu
trong Cầm chứ không thể một sớm một chiều mà quyết định được, (bạn bè của Cầm
nhiều người vẫn thường nhắc câu trả lời ngắn gọn cho câu hỏi của cán bộ tổ chức
đảng về quyết định đột ngột của mình “Tôi quyết định ra khỏi đảng vì tuyệt vọng
về bản thân mình!”, còn thực sự Cầm tuyệt vọng về ai, về cái gì thì chắc
không đơn giản!). Quả thật Cầm không còn hào hứng với giáo điều kinh viện, nhận
ra khoảng cách đáng sợ giữa sự thật và những giấc mơ đầy thiện chí cho dân tộc.
Và quyết định bất ngờ nầy thể hiện sự thất vọng với giấc mộng lấy triết học để
giải quyết lịch sử. Thỉnh thoảng, bên bàn cà phê Cầm tâm sự, dù “tuyệt vọng”
với triết học, nếu buộc lòng phải chọn một triết học để giải thích thế giới
thì Cầm vẫn chọn triết học Marx. Tôi học bộ môn triết, và dù không “sính” triết
chính trị nhưng tôi rất thú vị với ý kiến và sự nhất quán của Cầm. Trong khi
hàng ngàn người chỉ đọc vài trang triết học chắp vá đã lên giọng giảng đạo,
tuyên truyền, buộc tội đồng bào bạn bè, nhắm mắt ngợi ca không tiếc lời những
giá trị mà khi có sự thay đổi về không khí chính trị là họ quẳng đi không
thương tiếc, không cần chứng minh phân tích.
Cầm theo học Anh văn
nhưng có thể khẳng định ngành Cầm quan tâm nhất chính là triết học. Vì vậy, bạn
bè tri âm đều rất thích khả năng khái quát của Cầm, nói đúng chỗ, đụng vào vấn
đề cốt lỏi mà rất kiệm lời. Ví dụ, có dạo dư luận nói nhiều về việc anh em
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường dính líu những vụ “ân oán” vào Tết
Mậu Thân 1968 – tôi không có ý kiến riêng về vấn đề chính trị, nhưng nhiều
người nói với tôi, thực sự anh Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt vào thời
gian đó ở Huế (?) - thì anh Tường đã có ý phân trần với bạn bè và người quen
là mình chưa bao giờ giết người, thậm chí giết con ruồi con muỗi còn không
dám. Những người có mặt hôm đó kể lại rằng, Cầm đã đứng bật dậy bước ra khỏi
bàn sau khi nói với Hoàng Phủ Ngọc Tường “-Tôi tưởng anh đã đọc tiểu thuyết
“Anh Em nhà Karamazov” của Fyodor Dostoyevsky rồi, và đã biết nhân vật Ivan…”
Còn sự thật “Ivan” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đọc Dos hay chưa, hay đọc kỹ rồi
mà vờ vịt không biết thì Dieu seul le sait!
Một lần trong câu chuyện
với bạn bè, có người đã dùng cụm từ “Chính quyền cách mạng” thì Cầm bỗng nhỏ
nhẹ:
- Có lý luận cách mạng,
phong trào cách mạng và nhà cách mạng, nhưng có lẽ không có chính quyền cách
mạng. Chính trị khi đã được thiết chế hóa thành chính quyền thì e rằng không
còn tính cách mạng nữa.
Lần khác, khi có vẻ phật
ý vì một vài người cứ dài dòng trách
móc việc bị đồng chí đồng đội cũ đối xử tệ bạc, Cầm xua tay, không muốn nghe:
- Thôi, đủ rồi, lịch sử
xưa nay vốn không có tâm thức biết ơn.
Có hôm một ai đó nhắc đến
tên tuổi một số bộ mặt tích cực trong phong trào chính trị trước 75, gọi họ
là “Những nhà cách mạng”, Cầm vừa chỉnh gọng kiếng vừa tủm tỉm cười bình luận:
- Thật ra những nhà cách
mạng nầy cần một cuộc cách mạng hơn là cách mạng cần tới họ.
Tôi xem Cầm là một trong
những người đối thoại sâu sắc và ý nhị nhất mà tôi từng tiếp xúc.
Với tôi, “ứng tác” gọn
ghẽ, trực tiếp và đầy sức nặng của Cầm
- chỉ trên dưới mươi chữ - làm tôi liên tưởng tới những “giai thoại” của một
giáo sư triết có tiếng tăm, anh Nguyễn Trọng Văn. Là một trí thức khuynh tả,
công khai chống chế độ cũ, Nguyễn Trọng Văn cũng là một người đầy can đảm,
khí khái trước quyền lực tuyệt đối của chế độ mới. Khi dự đợt học chính trị
cho “trí thức cốt cán miền Nam” sau 75, đang nghe ông Mai Chí Thọ lên lớp về
“chuyên chính vô sản”, anh Nguyễn Trọng Văn đứng bật dậy, dõng dạc tuyên bố
“Trí thức miền Nam chúng tôi không sợ chuyên chính vô sản, chúng tôi chỉ sợ
chuyên chính vô học!”. Một lần khác, một lãnh đạo cộng sản, ông Võ Văn Kiệt -
so với những lãnh đạo cùng thời khác thì được lòng dân miền Nam hơn – nóng
lòng trước hiện tượng trí thức, chuyên gia miền Nam rũ nhau vượt biên - đã chủ
trì một buổi gặp mặt các trí thức “Sài Gòn”, và có một câu nói nổi tiếng đại
khái “Mong anh chị em kiên nhẫn thêm 5 năm nữa. Sau 5 năm, nếu chúng tôi
không thành công, các anh chị hãy đi chưa muộn.” Không phải ai cũng biết câu
trả lời tại chỗ, cũng “nổi tiếng” không kém của Nguyễn Trọng Văn “Năm năm nữa, các ông
không lãnh đạo được đất nước, thì chúng tôi lãnh đạo. Các ông phải đi, sao
chúng tôi phải đi!”.
Với tư cách là một người
bạn của Cầm, tôi thường có ý nghĩ trái ngược nhau về bạn mình. Những gì chàng
công tử xứ Thần Kinh mà sức khỏe dưới trung bình làm được trong những năm
tháng lịch sử đầy phức tạp, hay như từ mà Bửu Chỉ thích dùng “đầy quyết liệt”,
thực đáng cảm phục. Cầm viết ít, nhưng những người kén đọc có văn hóa cao, đều
nhận ra khả năng lý luận sắc sảo, trình độ tiếng Việt tinh tế, mỗi chữ đều có
trọng lượng. Có người gọi Cầm là một dịch giả tài hoa (Cầm là người dịch tác
phẩm “Chúa đã khước từ” in trước 1975) là một nhận xét công bằng.
Nhưng mặt khác, cùng với
một số bạn bè tôi cũng có ý trách Cầm. Vì sao ở độ tuổi 30, giữa lúc trí tuệ
đã chín, khả năng tiếng Anh tiếng Pháp thông thạo, Cầm đã không để lại cho đời
những trước tác xứng với tầm trí tuệ thông mình của mình; nói rõ hơn, tôi cho
rằng Cầm đã lãng phí mấy thập kỷ liền. Đến khi, theo tôi có lẽ Cầm nhận ra quỹ
thời gian không còn nhiều, khởi động lại thì đã muộn, sức khỏe vốn không dồi
dào gì của Cầm đã cản trở ý chí của chàng ta. Và đó chính là điều tôi tiếc nuối
mãi.
Nhưng, liệu đó có phải
là trường hợp của riêng Cầm không? Có vẻ như đó cũng là vấn đề của hàng loạt
trí thức, nhà văn ở miền Nam sau 75. Sự trách cứ có khi chưa đủ công bằng mà
kèm theo phải tìm cho được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi: Vì sao họ đã đột
ngột dừng sự nghiệp nghiên cứu, trước tác của mình giữa lúc sung sức nhất trước
sự ngạc nhiên của các “fan” hâm mộ họ? Và tôi tin đó cũng là câu hỏi họ từng
ray rứt đặt ra cho chính mình. Tôi không nghĩ mình là người đưa ra được câu
trả lời thỏa đáng, nhưng điều chắc chắn hiện tượng nầy nên được xem là một
trong những lãng phí lớn nhất mà bạn đọc và người yêu nghệ thuật, học thuật
phải chịu thiệt thòi.
Cầm thất vọng, Cầm trả
thẻ Đảng đó là quyết định cá nhân của Cầm, nhưng không chỉ thế, hành động của
Cầm đã làm thay và nói lên hộ ý muốn của một số trí thức, vì vậy họ khâm phục,
hài lòng về Cầm. Nhưng hành động trả thẻ Đảng của Cầm cũng làm một số khác đã
từng đặt kỳ vọng vào Cầm phải thất vọng. Trả thẻ Đảng, bán thuốc tây, tôi
nghĩ may mà Cầm trả thẻ Đảng khi chưa nhận được nhà cửa biệt thự, khỏi phải
mang tiếng phản bội vô ơn, chứ có những người tôi quen biết được Đảng nuôi Đảng
quý, Đảng ban tặng cho mấy cái biệt thự, vậy mà trong phút giận lẫy Đảng, vội
vàng một tay trả thẻ Đảng, còn tay kia thì khư khư ôm chặt biệt thự, kiên quyết
không trả. Họ khôn thật! Khôn hơn Cầm, bạn của tôi rất nhiều!
Nguyễn Tuyết Lộc
|
No comments:
Post a Comment