Đi
tìm xác em tôi
Kim Chi
Em trai tôi đi vượt biển vào tháng
12/1980. Có ai ngờ được em đi mãi mãi không về... Chuyến tàu của một người
quen tổ chức, khởi hành ở cửa Cần Giờ. Tàu thì nhỏ, chở quá đông người, một số
đã bỏ về. Nhưng em tôi, Út Trị và anh bạn trai của tôi, anh H. vẫn ngồi trên
con tàu định mệnh đó mà không chịu trở về nhà...
Nhà có bốn chị em gái và hai anh em
trai. Anh Ba tôi vừa trầy vi tróc vảy mới lấy được mảnh bằng Bác sỹ Thú Y giữa
những duyệt xét lý lịch khắt khe những năm ấy. Còn Trị, là em út, tuy học giỏi
nhất nhà, ngoan hiền nhất nhà, nhưng lại bị bọn Cộng Sản ngành Giáo dục gạt
tên em ra, giống như tôi và Sáu, không cho vào Đại Học vì lý lịch của gia
đình tôi quá tồi tệ! Anh H. đã tốt nghiệp Đại học rồi, nhưng vì thấy tôi muốn
đi vượt biên quá đỗi, nên anh đặt hai chỗ ngồi cho tôi và anh lên tàu. Vào những
ngày giờ, tôi bỗng muốn nhường cho Út đi. Em không muốn đi vượt biên, nhưng
chúng tôi khuyên lơn, năn nỉ em, hầu như nài ép em phải đi để có một tương
lai ở ngoại quốc, vì em là con trai, em cần đi hơn tôi. Nào ngờ...
Sau bao nhiêu năm chờ tin trong vô vọng,
chúng tôi lấy ngày đi của hai anh em làm ngày giỗ.
Cho đến 1985, tất cả anh chị em chúng
tôi đều lần lượt đến bến bờ tự do. Sau bao nhiêu năm khổ nhục trong trại học
tập, ba tôi cũng được bảo lãnh qua Úc sống cuộc sống tràn đầy hạnh phúc và tự
do. Nhưng, càng ấm êm, chúng tôi càng đau xót cho em tôi đang ở đâu đó chắc rất
lạnh lẽo... Chúng tôi luôn khoắc khoải nhớ thương Út. Riêng tôi, nỗi đau, nỗi
cắn rứt này của tôi kéo dài có lẽ cho đến ngày tôi nhắm mắt....
Vô tình, người kiến trúc sư VN, anh
L. ở Melbourne đang vẽ họa đồ cho nhà của chị Tư của tôi, kể cho chúng tôi
nghe chuyến đi tìm cái... đầu ông ngoại của anh! Ông ngoại của anh bị đấu tố
trước năm 1954 ở miền Bắc. Gia đình lúc ấy đem cái xác ông ngoại của anh đi
chôn mà thiếu cái đầu! Trong nhà làm ăn không trôi chảy, cứ có toàn những
chuyện kỳ lạ xảy ra. Rồi có người chỉ anh L. về VN nhờ một người có giác quan
thứ sáu, chuyên tìm xác chết thất lạc lâu năm. Anh L đã về VN, theo từng chỉ
dẫn của nhà ngoại cảm tên Dũng. Anh đi xe đò đến thành phố Hà Tây, xuống xe ở
một ngã ba, tìm đến một căn nhà có trồng nhiều cây hoa giấy được cắt tỉa hình
dáng các con thú vật. Vào trong ấy và hỏi tên ông Cang, ông Cang sẽ chỉ dẫn
tiếp.
Ấy thế mà anh L. đã tìm được đến nhà
ông Cang. Khi gõ cửa nhà và hỏi có ai tên Cang ở nhà này không; thật không ngờ,
ông ta bước ra, hỏi ngược lại ai đã cho biết cái tên Cang này, vì ông đã đổi
tên lâu lắm rồi!
Ông Cang đã dẫn anh L. đi đến nơi
chôn cái đầu. Ông ta là... đao phủ thủ ngày xưa!
Theo như những người đi chung tàu của
em tôi bỏ về SG lại, con tàu không thể ra biển nổi, vì quá khẳm, mà gió biển
hôm ấy cấp sáu, cấp bảy, cộng thêm là trên đường ra cửa Cần Giờ, có một nơi
có đá ngầm, rất nhiều tàu bị đắm ngay đấy. Tôi cũng biết chuyện này, khi tôi
đi công tác vài lần ở Duyên Hải năm 1978, 1979, đi trên con tàu đến đoạn đá
ngầm này, gia đình chủ tàu bắt hành khách ngồi im cùng... khấn vái cho tai
qua nạn khỏi! Do đó, chúng tôi hy vọng Út nằm đâu đó không xa cửa Cần Giờ.
Chúng tôi năm người gồm có: má tôi,
chị Hai, chị Tư, và Sáu, (em gái tôi) từ Úc Châu về, còn tôi thì từ Canada, hẹn
gặp nhau ở Sài Gòn để cùng đi tìm xác Út vào tháng 11 năm 2001.
Trước khi quyết định về, chị Tư từ Úc
đã phone cho nhà ngoại cảm: anh Dũng. Anh tốt nghiệp ĐH Khoa Học trước 1975.
Anh rất bận rộn, nhưng vẫn vui vẻ đồng ý giúp chúng tôi mà không hề nhận BẤT
CỨ THÙ LAO gì. Chúng tôi ở khách sạn Palace ngày đầu, chờ giấc chiều tan sở rồi,
chị Tư mới phone chào anh Dũng và để xin anh chỉ dẫn làm sao tìm được xác Út.
Trên phone, anh bảo chị Tư kể lại
ngày giờ khi em Út đi, em mặc đồ gì, đem theo những gì, đi với ai, đi từ
đâu... Rồi anh bảo cứ thắp nhang cầu nguyện hương hồn em Út. Đến tối khuya
hôm ấy, anh phone lại, anh bảo hãy chuẩn bị sẵn dụng cụ đào đất, bao nylon đựng
xác, trái cây, nhang... để cúng dọc đường, và anh cũng bảo ngày mai đi được rồi!
Rồi anh bảo ghi xuống những điều anh đã thấy trước được đây:
– Chúng tôi đi chẳng bao lâu sẽ có một
người đàn bà chỉ đường đi!
– Trên đường đi, sẽ có một người tên
Tâm, một người tên Tùng giúp đỡ!
– Sẽ có một em bé gái nhỏ chừng sáu,
bảy tuổi, tóc dài, kẹp cây kẹp ba lá, nắm tay dẫn ra một cái miếu hoang. Hãy
cúng trái cây và thắp hương ở đây.
– Sẽ thấy một căn nhà có cánh cửa màu
xanh dương. Trước hiên nhà, một cô gái mặc áo đỏ đang ngồi ghế chơi. Từ căn
nhà này, cách đấy một trăm mét, có một bãi đầy chuồn chuồn bay. Có một cành
cây chết, có vướng một bao nylon rác màu trắng. Dở bao rác lên, có một cái
mai con cua chết nằm ngửa, nơi đấy là nơi Út nằm!
Tất cả chỉ có bấy nhiêu tin tức để đi
tìm thằng em trai đã mất từ hơn hai mươi năm trước. Không có lấy một tên đường,
không có một số nhà, không có địa chỉ để đi tìm... Chỉ biết là phải đi đến cửa
Cần Giờ mà thôi!
Chúng tôi nhờ nhân viên khách sạn
Palace bao thuê một chiếc Toyota Corolla, cộng với cậu tài xế trẻ, trên xe có
tổng cộng sáu người.
Suốt đêm, cả nhà chúng tôi nôn nao!
Bao nhiêu chuyện xưa chợt ùa về trong đầu tôi. Tôi đề nghị ghé thăm gia đình
anh H, người bạn trai của tôi cùng mất tích chung với Út. Tôi muốn thắp nén
nhang cho anh trước khi khởi hành chuyến đi này.
Đây là lần đầu tiên tôi về thăm lại
VN sau mười sáu năm rời xa. Nhưng tôi vẫn nhớ như in trong đầu căn nhà thật
khang trang, xinh xắn nằm trong một con hẻm rộng lớn trên đường Trần Hưng Đạo.
Tôi hình dung lại những buổi cơm gia đình ấm cúng những ngày cuối tuần, từng
nụ cười ấm áp, từng ánh mắt rạng ngời như đón một đứa con dâu, một em dâu, một
chị dâu. Bỗng... Đùng! Tất cả trôi theo thân xác của anh xuống lòng biển
sâu...
Mẹ của anh tóc trắng như tuyết phủ,
lưng còng gãy cụp xuống, run-run nắm lấy tay tôi mà đầm đìa lệ! Tôi thắp nhang
cho anh, tôi cầu nguyện... Trên bàn thờ, anh vẫn cười tươi với tôi mà tim tôi
sao như có ai đâm hằng trăm, hằng nghìn nhát dao...
..... Đã bao nhiêu ngày tháng năm qua
rồi nhỉ?
Ai quất nghìn roi cho máu rỉ tim côi
Đời vẫn lăn hai dòng mưa nắng, nhật nguyệt
Người chẳng có tin, từ buổi ấy chia
phôi...
Hôm ấy anh đi trên chuyến đò trái
ngang
Con thuyền mong manh tựa như chiếc lá
vàng
Lá vàng rơi em còn nhặt cài lên tóc
Thuyền bặt tin… em chỉ khóc... lệ như
tang...
Rời khỏi nhà của anh H, chúng tôi bắt
đầu đi Cần Giờ! Anh tài xế tên là Tony. Anh hay chở du khách ngoại quốc đi
chơi. Tony có thể nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Tony cũng nói rằng anh là người
quê ở Cần Giờ. Lâu lắm rồi anh không về lại đây. Hôm nay được đi Cần Giờ, anh
rất là hứng thú! Chúng tôi không dám nói cho anh biết là đi tìm xác em trai,
mà chỉ nói là đi tìm nhà người quen mà không có địa chỉ "chắc chắn"!
Anh rất sốt sắng, vui vẻ chạy xe ra ngoại ô Saigon. Anh hơi lúng túng vì đường
sá thay đổi nhiều quá, Tony bèn dừng xe lại ở một quán cà phê bên đường để hỏi
đường. Khi anh trở ra, anh vui vẻ bảo:
– Chúng mình đi đúng hướng, đúng đường
rồi!
Và anh nói tiếp:
– Lạ thật! Cả một cái bàn toàn là đàn
ông ngồi ăn sáng uống cà phê, chỉ có MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ mà thôi. Mà bà ta lại rất
rành rẽ đường sá. Chính bà này đã chỉ đường cho em đó bác và các chị! Mình cứ
đi thêm một giờ nữa sẽ qua phà nhỏ, rồi sẽ đi tới một cái chợ, rồi qua cửa Cần
Giờ...
Chúng tôi giật mình, chợt nhớ lại anh
Dũng đã bảo sẽ có một người đàn bà chỉ đường đi... Sao lại trùng hợp như thế?!
Xe chạy trên một con đường đất đỏ
đang làm dở, bụi mù mịt. Rồi cuối cùng đến bến phà. Trong thời gian chờ cái
phà khoảng nửa giờ nữa mới khởi hành, tôi muốn đi mua ít nón lá để đội vì nắng
quá là nắng. Mà "ngũ long công chúa" này chỉ vỏn vẹn có một cây dù
thôi! Tôi thấy có một căn phố lầu rộng lớn, phía trước có xe nước mía có ghế
ngồi, có mái nhà mát mẻ với các chậu cây cảnh xung quanh. Tôi mua vài ly nước
mía cho các chị em tôi uống, và bảo má tôi ngồi chờ tôi băng qua đường để mua
thêm vài cái nón lá. Khi tôi trở lại, má tôi và chị chủ nhà đang nói chuyện
vui như pháo nổ. Thấy tôi lại chị nhìn tôi một thoáng, và bảo:
– Bác ơi! Bác nói bác ở Dalat về Cần
Giờ tìm người quen… Bác và các cô trắng trẻo hồng hào thế này, chẻ cái đầu
cháu ra, cháu cũng nói các cô và bác không phải ở Dalat, mà ở nước ngoài về!
Có đúng không?! Coi nước da của các cô kìa, đỏ au cả lên. Thật là nguy hiểm
quá, các cô nhìn yếu đuối như thế này, sao các cậu, các chú đâu mà để bác và
các cô đi như dzầy? Bác thì có tuổi, đau yếu, đi vào trong ấy hẻo lánh, rủi
ro có gì có ai giúp không? Hay người ta sẽ... làm thịt cả nhà năm người đàn
bà, không có lấy một người đàn ông đi cùng?!
Chúng tôi nhìn nhau, không biết phải
nói sao! Nhìn lại em gái tôi, dù Sáu đã mặc một cái quần satin đen và chiếc
áo bằng gấm lụa trông rất... thôn nữ! Nhưng lại quên, Sáu xách một cái bóp đầm
(hand bag), mang... đôi giày cao gót, nhìn không thôn nữ chút nào cả! Tôi thì
mặc một cái jean overalls bạc màu nhìn thật... bụi đời. Đã thế, cái mặt và
cánh tay trần của tôi đỏ như da lột vì tôi ở Canada bao nhiêu năm trời, không
quen với cái nóng 35, 36 độ C như thế này. Ông bà trời đất đã phù hộ cho
chúng tôi ngồi nghỉ chân ngay đúng nhà của chị chủ nhà thật tốt bụng này. Lúc
ấy khoảng 11 giờ trưa, chị bảo chúng tôi chờ một chút thôi, rồi chồng của chị
đang đi đón thằng bé con tan học về, chị sẽ bảo chồng của chị hộ tống chúng
tôi đi vào sâu trong Cần Giờ! Chị bảo, vợ chồng của chị còn không dám vào
trong đó nữa, mà chúng tôi năm người đàn bà từ ngoại quốc về lại dám vào
sao?!
Chờ chỉ độ mười phút, chồng của chị
chở thằng bé con đi học về. Chị trình bày câu chuyện, và người chồng thật tốt
bụng y hệt như người vợ, đồng ý đi theo hộ tống chúng tôi ngay. Chẳng những
thế, anh còn bảo chị vợ và thằng bé con đi theo luôn! Anh dặn dò chúng tôi phải
nói với mọi người chung quanh rằng vợ chồng của anh là người nhà của chúng
tôi ở đây, để dân chung quanh đấy không ăn hiếp chúng tôi.
Sau khi qua phà, rồi lên xe hơi đi thêm
một đoạn, đến một ngã ba đường, chúng tôi phải xuống xe hơi, vì đường nhỏ
quá, nhỏ đến độ xe không cách chi trở đầu xe lại được, mà chỉ có cài số de để
đi về thôi... Tony phải ở lại coi chừng xe. Chúng tôi đi bộ vào sâu trong
làng, anh chị "bà con" này chạy xe phía trước, rồi chạy ngược lại
phía sau kiểm điểm xem chúng tôi có được an toàn không. Càng đi sâu vào làng
mạc, nhà cửa càng vắng vẻ. Xa xa mới có một cái nhà. Má tôi không thể đi bộ
xa được. Tôi cũng thế. Trước ngày đi về VN vài ngày, tôi bị bong gân khá nặng
vì mang giày cao gót trợt té xuống thang lầu. Chân của tôi sưng to, bị đau nhức
khi cử động. Bác sỹ dặn tôi phải nghỉ ngơi vài tuần, nhưng tôi đã mua vé về
VN rồi, tôi không thể "nghỉ ngơi" được! Tôi bó cổ chân rất chặt.
Tôi mang một đôi giày thật êm. Nhưng chỉ đi bộ độ 300 mét thôi, chân tôi bắt
đầu làm reo. Tôi ngồi bệt xuống đường để nghỉ chân. Bỗng dưng, có một em bé
gái từ trong xóm đi ra, ẹo cái đầu ngắm chúng tôi, rồi buột miệng hỏi chúng
tôi:
– Đi đâu dậy mấy cô... đẹp ơi!
Hahaha! Em bé gái trông lôi-thôi lếch-thếch
thế kia mà cũng biết nịnh đầm rồi! Tôi bảo em chúng tôi muốn đi tìm một cái
miếu nào gần đây để thắp hương!
Em mừng rỡ, chạy lại nắm tay tôi kéo
đi không kịp thở! Em nói:
– Cái miếu ở ngay sau nhà em nè. Ngày
nào em cũng ra miếu chơi hết á! Đi theo em, đi nhanh lên. Tụi mình chơi... thắp
nhang ở đó "nheng"?!...
Chị Tư của tôi bỗng kêu chị Hai tôi
giật ngược, và bảo chị Hai tôi mở lại tờ giấy ghi chú lời dặn dò của nhà ngoại
cảm xem sao! Thật kỳ lạ! Anh Dũng đã đoán trước có một cô bé gái nắm tay dẫn
đi đến cái miếu. Tóc em như râu bắp, rối bời, rít chịch nước biển, được túm lại
bằng cái cây kẹp ba lá, đúng hệt như anh Dũng đã nói. Không giải thích được!
Đi theo em gái, chúng tôi khó nhọc
men trên những bờ ruộng gồ ghề, bước lên những thân cầu mong manh bắc ngang
những mương nước nhỏ để đến cái miếu.
Đây là một cái miếu như bỏ hoang. Ít
cọng chân nhang vẫn còn cắm trong lon sữa bò. Một tượng Phật Bà Quan Âm bụi đất
bám đầy. Một bức ảnh Phật Thích Ca cũ kỹ trong khung gỗ không có kính, nên
nhìn càng thấy buồn hơn. Chúng tôi bày hết trái cây ra đấy, phủi bụi, lau sơ
khung hình Phật Thích Ca và Phật Bà Quan Âm, rồi chúng tôi thắp nhang van
vái.
Trên đường đi ra, chúng tôi cho em bé
gái ít tiền, và dặn em khi nào đi ra đây chơi, nhờ em lau chùi, phủi bụi giùm
chúng tôi. Em giương mắt to ngạc nhiên nhìn chúng tôi. Có lẽ đây là lần đầu
tiên em được trả tiền cho một việc mà không bao giờ em được ai cho tiền cả!
Trên đường đi ra, anh chị "bà
con" của chúng tôi đã lanh lẹ huy động được năm chiếc xe gắn máy của dân
làng gần đó để chở chúng tôi đi sâu vào cửa Cần Giờ mà không cần đi bộ khổ cực
nữa. Có hai người làm nghề xe ôm, và ba người là dân làng xin được làm để kiếm
thêm tiền. Chị Tư của tôi là người... tròn trịa nhất, đã bị ông tài xế thiếu
kinh nghiệm chở... Việt Kiều, chạy ngang qua ổ gà, đã... quăng chị té xuống đất,
ướt bẩn hết cả người. Cũng may mà chị và ông ta không sao cả!
Chúng tôi đến bến tàu, anh chị
"bà con" của chúng tôi lo đi ngoại giao để mướn một cái tàu đánh cá
đẹp và khá lớn, nhưng phải chờ nước lên mới qua bên kia cửa biển Cần Giờ được.
Trong thời gian ngồi chờ nước lên, chúng tôi giở bánh mì, xôi, trái cây, nước...
ra ăn uống. Chúng tôi ngồi túm lại với nhau, và mời anh chị "bà
con" dùng chung thức ăn, thức uống với chúng tôi! Má tôi chợt hỏi:
–Anh chị đi theo chúng tôi nãy giờ mà
không biết tên anh chị là gì để xưng hô đây nữa.!
Người chồng vui vẻ trả lời:
– Dạ bác! Con tên là Tâm đó bác.
Tôi trợn mắt nhìn anh! Anh vẫn điềm
nhiên, vợ anh vẫn vui vẻ nói chuyện. Chị Hai tôi kề tai má tôi nói nhỏ:
– Má ơi! Ảnh tên... TÂM, tên Tâm đó
má ơi!.
Má tôi líu giọng lại, cứ nhìn anh
Tâm, miệng lẩm bẩm:
– Sao... mà ngộ quá vậy? Sao... kỳ
quá vậy... hả con?
Chị Tư tôi cũng trợn ngược mắt lên, hỏi
lại lần nữa:
– Xin lỗi anh, anh vừa nói anh tên
gì?
– Tui tên là Tâm, Nguyễn văn Tâm. Mai
mốt chị có dìa VN nữa ghé nhà tụi tui chơi. Cứ nói tên tui là không ai dám gạt
hay ăn hiếp chị đâu!
Cô em gái, Sáu, chậm tiêu nhất. Nhìn
thấy chúng tôi to nhỏ với nhau mà ngơ ngác không hiểu gì cả! Chị Hai tôi phải
lấy tờ giấy con trong bóp ra, không nói gì mà chỉ lấy ngón tay dí đúng vào
cái tên Tâm nằm trên tờ giấy. Sáu giật nẩy mình lên, nhìn anh Tâm chầm-chập,
lại hỏi lại câu hỏi ngớ ngẩn này lần nữa:
– Anh tên là Tâm thiệt à? Oh... My...
God...!
Gần ba giờ trưa, nước lên xấp xỉ đủ để
tàu khởi hành qua bên kia là cửa Cần Giờ. Người ta cõng má tôi xuống thuyền
trước. Từ trên bờ muốn xuống thuyền, phải xắn quần lên quá đầu gối, chân dẫm
lên bùn, lún rất sâu, làm tôi bồi hồi nhớ lại ngày tôi xuống tàu đi vượt biên
mười sáu năm trước, tôi cũng lội lên bùn như thế này để leo lên cái thuyền
thúng, rồi chuyển qua tàu lớn và đến bờ tự do của Indonesia...
Sau khi cõng má tôi, họ quay lại cõng
tôi, vì tôi đang băng một miếng băng elastic ở cổ chân. Nó cũng đang sưng,
đau vô cùng khi tôi cử động. Tàu nổ máy, bắt đầu rẽ sóng chạy xình xịch qua
bên kia cửa biển. Nhìn biển bắt đầu mở rộng ra, sóng nhấp nhô, má của tôi
rưng rưng nước mắt, tưởng tượng ngày em tôi đi, không biết con tàu nhỏ bé như
thế nào... Chị Tư của tôi thì bồi hồi nhớ lại chuyến đi vượt biên của chị, những
rượt đuổi giữa đám Công An với con tàu, rồi tàu của chị đã liều mạng, một sống
một chết, xả súng bắn hết cả đạn vào bọn CA đang rượt theo! Lucky, bọn chúng
chết nhát, tưởng tàu của chị có nhiều đạn dược súng ống lắm, đâu ngờ rằng họ
chỉ có một cây súng và một băng đạn độc nhất thôi! Còn tôi, nhìn sóng nước
mênh mông, bờ lau sậy xa dần phía sau, tôi bồi hồi xúc động đến đau nhói cả
trái tim... Tôi ngồi lâm râm cầu nguyện, lâm râm gọi tên anh H, gọi tên em
trai Út vắn số của tôi...
Tàu chạy chỉ độ nửa giờ đồng hồ là
qua đến cửa Cần Giờ. Chị Hai và chị Tư tôi cứ lấy giấy của anh Dũng dặn dò ra
xem xét cẩn thận. Theo như anh dặn, tất cả sự việc đều đã xảy ra đúng hệt như
có người sắp đặt. Chị Hai tôi quyết định mướn hai xe gắn máy của dân làng chở
chị Hai và chị Tư, cùng anh chị Tâm đi tìm căn nhà nào có cánh cửa màu xanh
dương. Còn tôi, má tôi, và Sáu thì ở trên thuyền chờ tin tức. Nhìn hai cha
con người chủ tàu mặc quần xà lỏn, ở trần trùng trục, nước da nâu bóng ngời,
cái bắp tay lực lưỡng, vấn thuốc rê hút phì phèo, tôi bỗng nhiên... lo lắng!
Tôi tưởng tượng họ không phải là người VN, mà là… cướp biển Thái Lan tuy tôi
chưa biết bọn cướp biển Thái Lan như thế nào!
Trên đất liền ở ngay cửa biển Cần Giờ,
nhà cửa rất thưa thớt. Xa xa mới thấy có một căn nhà lá. Phải chạy khắp nơi để
tìm cho ra cái nhà nào có cánh cửa màu xanh dương, có cô gái mặc áo đỏ ngồi
trước hiên nhà không phải là chuyện dễ. Anh chị Tâm cũng chạy ngược xuôi trên
những bờ ruộng, bờ ao nuôi cá tôm phu tìm kiếm.. Còn tôi ngồi chờ trên tàu,
tay thọc vào túi quần jean overalls đầy tiền mặt mà lo lắng vô cùng.
Cuối cùng, chị Hai tôi vui mừng chạy
đến báo tin là đã thấy cô gái áo đỏ ngồi trước căn nhà có một cánh cửa màu
xanh dương rồi! Nếu chỉ tìm cánh cửa xanh dương, chắc đến tết... Congo! Vì
cánh cửa này tróc sơn hết tám mươi phần trăm rồi. Nhờ nhìn thấy cô gái áo đỏ
trước, rồi thấy cái cửa xanh dương sau lưng của cô, mới tìm ra khu vực này.
Thế là hai xe gắn máy bỏ hai chị tôi lại đấy, cùng vòng lại với anh chị Tâm,
đón tôi, má tôi và Sáu. Tôi và Sáu ngồi chung một xe, má tôi một xe, và anh
chị Tâm hộ tống vì anh chị không yên tâm để chúng tôi đi với dân chài ở đây!
Tôi thật nhớ ơn anh chị này vô cùng, chúng tôi đã gặp người thật tốt giúp đỡ.
Cả gia đình năm người chúng tôi túa
ra tìm chỗ nào là đất có đám chuồn chuồn bay! Dân làng bắt đầu tò mò bu chung
quanh chúng tôi đến mấy chục người. Lúc ấy, chúng tôi quyết định không giấu
giếm nữa. Chúng tôi nhờ họ tìm giúp chúng tôi chỗ nào là miếng đất có chuồn
chuồn bay.
Bỗng, chị Tư tôi reo lên, và xăng xái
lội xuống một bãi lầy có đầy chuồn chuồn đang bay vần vũ! Chúng tôi mừng rỡ,
rồi vừa cầm máy quay phim, chị Tư vừa lội ra xa hơn. Chị lại reo lên:
– Đây rồi, đây có cành cây khô với
bao rác đây...
– A! Cái mai con cua đây! Đúng nơi
đây rồi.. Đúng chỗ rồi...
Tôi vì đau chân nên không thể bước xuống
bãi sình này được. Nước biển đang ngập lầy lội. Vài căn nhà lá xa xa. Trước mặt
là biển mênh mông, chỉ có dăm cây đước, cây lau sậy ngăn sóng biển không bổ mạnh
vào đây như phía bên ngoài.
Dân làng đã biết chúng tôi đi tìm xác
người nhà. Họ sốt sắng chạy về nhà lấy thêm cuốc xẻng. Những người đàn bà thì
vây xung quanh bàn tán. Cách đây rất lâu, họ nói đã thấy ít tử thi trôi tấp
vào đây. Lại có người còn nói thấy một tử thi có cái ba lô bằng kaki vắt chéo
ngang vai. Giống như là em tôi ngày em đi... Má tôi khóc sụt sùi dù chưa thấy,
chưa tìm được gì cả! Tôi ráng bước lại gần hơn để nhìn cái cành cây khô, cái
bao rác màu trắng, và cái mai của con cua chết lật ngửa... Tim tôi tan nát,
tưởng tượng anh H. và Út cái ngày giờ xuôi tay thua cuộc vẫy vùng, rồi đau đớn,
lạnh lẽo, cô đơn, nằm chôn vùi ước mộng tuổi trẻ nơi đây... Tôi khấn vái em
tôi. Tôi gọi tên anh H. Tôi chỉ biết ứa nước mắt cầu nguyện. Ngực của tôi nặng
thật là nặng...
Trong khi tôi đang lặng lẽ cầu nguyện,
có khoảng bốn thanh niên lực lưỡng bắt đầu đào. Đào tới đâu, nước cứ túa ra tới
đó. Họ cố gắng vừa đào, vừa chắt nước đổ sang chỗ khác. Trời bắt đầu tắt nắng.
Họ không thể nào đào sâu hơn được. Chị Tư tôi cầm phone, cố phone cho anh
Dũng. Ở đây không bắt sóng điện đài (reception) dễ dàng như trong đất liền.
Sau nhiều lần phone, anh bắt phone lên và nói nếu đã tìm được địa điểm đúng rồi
thì chỉ việc ráng đào lên thôi. Sẽ thấy được xương cốt nếu đào sâu xuống khoảng
hai mét. Chúng tôi năn nỉ dân làng hết sức tát nước ra và xúm nhau đào trước
khi trời tối. Nhưng, thật lạ, nước cứ ngập tràn vào, càng lúc càng nhiều hơn,
nhanh hơn, không cách nào đào sâu hơn được. Chị Tư lại phone anh Dũng. Anh
Dũng bỗng nhẹ giọng lại, khuyên chúng tôi hãy đi về đi: Anh thấy vong hồn của
em tôi không muốn bị dời chỗ ở nữa!
Trời buông sập tối nhanh một cách kỳ
lạ. Má tôi và chúng tôi cầu nguyện lần cuối rồi ra về. Chúng tôi cho những
người đào đất tiền, trả cho những người chạy xe gắn máy tiền. Tôi đã cẩn thận
chia tiền ra làm nhiều túi quần. Sau này, những người biết rành về anh Dũng
đã nói, chúng tôi đi về mà chưa lấy được di cốt của em tôi là một chuyện ít
thấy khi anh Dũng đã đoán đúng hết các sự việc nhỏ nhặt xãy ra trước đó.
Trên xe hơi đi về, chúng tôi giở tờ
giấy ghi chú ra xem, chợt thấy còn tên một người mà chúng tôi chưa gặp trên
đường đi. Đó là tên Tùng! Chúng tôi bàn với nhau:
– Chắc Tùng là tên của vợ anh Tâm đó
mà mình đã quên không hỏi chị ấy...
Tony chợt lên tiếng:
– Em tên Tùng đây nè bác và các chị.
Tên thật của em là Tùng đó mà!
Tôi không thể nào ngờ được mọi sự việc
lại kỳ quặc như thế! Chúng tôi về đến SG trời đã tối lắm. Dùng cơm tối ở nhà
hàng, rồi về lại khách sạn, mở lại cái video xem lại lúc quay phim, nhất là
lúc các thanh niên đang trần trùng trục đào bới, tôi chợt thấy đám mây trên
trời đang xanh biếc lúc ấy, bỗng dưng tối sầm lại như có một cái màn cửa màu
xám đen đang cố kéo lại che mắt của mọi người. Tôi rewind tới, lui. Sao mây
đen kia lạ lùng thế? Trời bỗng đổi màu xanh biếc qua màu xám xịt chỉ trong có
tíc-tắc...
Anh chị Tâm phone cho chúng tôi vài
hôm sau. Anh bảo chúng tôi hãy trở lại lần nữa đi, mà ngủ đêm ở nhà anh chị
trước một ngày, rồi qua bên cửa Cần Giờ sáng sớm hôm sau để có nhiều thì giờ
hơn. Nhưng, chị Hai tôi quyết định sẽ không đi lấy cốt của em nữa, vì tối hôm
đi tìm cốt Út về, chị lần đầu tiên trong cuộc đời, đã nằm mơ thấy em đứng ở đầu
giường, mỉm cười thật tươi với chị như hài lòng với quyết định của chúng tôi.
Tôi buốt cả lòng, tôi chưa bao giờ chiêm bao thấy được anh H...
....Anh hãy về đây trong giấc ngủ em
mong
Mơ thấy anh trìu mến nắn mấy tơ hồng
Ngày anh đi tóc em còn xanh như ngọc
Đợi mỏi mòn nên đã hóa vạn xiềng
gông...
Em tôi và anh H đã không cùng với
chúng tôi sống và hưởng thụ một cuộc sống tự do đầy màu sắc ở trần gian,
nhưng chắc em cùng anh H đang vui và rất toại nguyện ở một thế giới nào đó.
Nơi ấy, chắc chắn là thiên đường, không có áp bức, không có hơn thua, không
có bom đạn, không ai... cứu xét lý lịch. Và chắc em cũng đang nắm tay ba của
tôi, nắm tay anh H. nhìn thấu lòng thương nhớ của tôi đối với hai anh em..
Kim Chi
|
Thursday, April 27, 2017
ĐI TÌM XÁC EM TÔI (Kim Chi)
Labels:
-Truyện Ngắn
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment