|
Phạm Cao Hoàng |
Như một lần cháy nhà (hoặc bị sóng thần hay động đất),
những sách báo ky cóp được trong bao nhiêu năm đã ra tro bụi hết. Lần ấy xảy
ra vào năm 1975, mà sau này tôi vẫn tự trách là đã quá buông xuôi trước thời
cuộc. Có cả những cuốn vở ghi chép về mối quan hệ của mình với văn chương,
môt bài thơ hay của một tác giả nào đó mà không cần quen hay lạ, và nhiều khi
một ngày bất ngờ trở thành một ngày vui khi trên báo có một bút danh mới thấy
lần đầu làm cho tôi vơi bớt nỗi cô đơn trong sự viết lách mê mải nhưng vốn
không có mối quan hệ phường hội nào với các tờ báo đăng bài của mình.
Nhớ có một lúc trong cuốn vở học trò rộ lên những
cái tên Luân Hoán, Thành Tôn, Trần Hoài
Thư, Mường Mán, Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Phan Thịnh, Phan Thảo Trang, Lâm
Chương…là những người mới thoáng biết nhưng dường như đã quen
từ kiếp nào, mà sau đấy cũng
không nhất thiết phải có một sự kết
giao nào. Nói không ngoa, những cây
bút ấn tượng thuộc thế hệ làm
thơ chúng tôi không vắng ai trong cuốn vở đó,
và khi lịch
sử sang trang thật không ngờ nó đã
tan theo những
sách báo trong cuộc cháy nhân tạo nói trên. Phạm Cao
Hoàng cũng cháy trong cuốn vở đó cùng với những dòng ghi theo cảm xúc của một
người làm thơ mong mà không đợi một bến đậu , ngoài cái bến nanh nọc là sự buồn
bã y như đã hoá thạch.
Lúc ấy chúng tôi có một chút chênh lệch tuổi tác
nhưng cùng một thế hệ ở thành thị miền nam trong một dòng chảy nghiệt ngã,
cùng chia sẻ với nhau về cuộc chiến lù lù trước mặt, những cuộc tình vì nó mà
dang dở và một cái “án tròi hành” là viết.
Hơn 30 năm qua rồi, bao nhiêu là cơn bão khô tràn
qua rắc cát vào trí nhớ, không còn nhớ đã ghi gì về Phạm Cao Hoàng, nhưng
không quên đó là một cảm nhận rằng người đồng nghiệp này sẽ đi xa, khá xa trên con đường viết
lách, được ghi vào ngày thấy tên người xuất hiện trên báo. Và lúc này đây, mường tượng lại đó là những
dòng ghi đầy thân thiện trong cuộc chơi càng đông càng vui. Lúc ấy tôi mới ba
mươi, còn trẻ lắm nên cũng còn nhiều kiêu hãnh, nhưng
thái độ của tôi là
không cho mình cái quyền “phong hàm” cho ai, chỉ coi người đó là đồng nghiệp
cho sòng phẳng cả đức
khiêm tốn lẫn cái quyền được đọc thơ có tâm trạng, đằm thắm, và chân thật. Những
lời ghi trong cuốn vở bạc mệnh kia đã có
những cái tên
mà không phải không qua
sàng lọc của
một người đọc
thơ chuyên nghiệp là tôi.
Phải gần hai năm trước đây chúng tôi mới gặp nhau
qua thế giới ảo. Và cũng như ngày xưa, ấn tương về Phạm Cao Hoàng và thơ của
người như một thứ thực phẩm vừa miếng cho khẩu vị của mình. Nhưng nay, khi ngồi
viết những dòng này, băn tới khoăn lui vài ngày, đọc đi đọc lại mấy khi mà vẫn
không tìm ra một câu và ý mở cửa cho bài viết. Cuối cùng thật may, tôi đã tìm
được một giai điệu của ai đó. Người ta viết về Phạm Cao Hoàng, đúng ra là về
thơ của người như thế này: “Trước 1975, điểm nổi bật của thơ Phạm Cao Hoàng
là những xúc động đẹp, nồng nàn, và nhẹ nhàng về những điều mà tình cảm anh nắm
bắt được. Bài thơ NHỚ CÚC HOA của Phạm Cao Hoàng là một bài thơ hay, mô tả tình
cảm với đất, trời, cùng nỗi cô đơn lay lắt nhẹ nhàng của đẳng cấp thi
sĩ (Cao Thoại Châu nhấn mạnh), vốn là những tâm hổn cực kỳ mẫn cảm với đời sống”(Đoàn
Thị Thư)
Thì bắt đầu
từ NHỚ CÚC HOA. Tìm
ra một câu thơ tình nghe hay không khó, cái khó là câu đó nói thế nào chứ không phải nói cái gì. Thơ tình là một biến dạng của đời sống,
là đời sống như con lật đật mượn cái bóng của tình
yêu để núp vì sống thì cô đơn và nhiều sợ hãi.
đôi khi đứng bên triền đá dựng
anh hoang mang sợ núi đè mình
Một ngọn núi, một con người, hình tượng lãng mạn,
mới lạ, và độc đáo. Núi như số phận đè xuống trái tim vắng chủ. Như một sự
lôi kéo người tình vào bóng núi khi phải sống cô đơn.
và buồn thảm ôi những chiều lặng lẽ
núi và anh thành hai kẻ đăm chiêu
Núi có hồn, và hai người mỗi thứ đăm chiêu một lẽ.
Bốn câu thơ trích trên hay quá sức. Người con gái
nào kia không những chỉ nhận ra vai vế của mình trong lòng chàng, mà còn cảm
nhận nỗi bơ vơ của một người đang có tâm trạng. Người
làm thơ nào cũng có thể giãi bày tâm trạng, nhưng
giãi bày thành thơ nhiều cảm
xúc như thế thì không nhiều. Đấy là “đẳng cấp thi sĩ”.
Thơ tình là một mảng bè mà tác giả của nó co ro ngồi
trên đó như một kẻ sa cơ lỡ vận
trắng tay trước một mối tình đã
đi không quên để lại một mớ gian truân khổ ải cho người ngồi trên mảng bè.
Cho nên thơ tình là thơ hay nhất trong cõi nhân sinh này. Phạm Cao Hoàng có
những câu thơ bi thiết mà tráng lệ:
nhớ gì không hỡi con đường lá ướt
chiều thôi mưa anh đợi em về
Mất nhau rồi không còn ai để đợi, đành cứ mẫn cán
mà đợi chính mình.
Thi sĩ có mấy ai không buồn, nhưng có lẽ nên buồn
như GÃ HÀN SĨ ẤY LẠI RA ĐI:
ta đi, thôi nhé, ta đi nhé
đưa tay ngắt một cánh hoa quì
nghe dòng lệ ứa trong đôi mắt
chào quê nhà nhé, thôi ta đi
Một thứ buồn đầy tính cách điệu, ra đi dửng dưng
mà đầy lưu luyến. Buồn, nhưng phải làm ra lẽ một câu thơ hay.
Chúng tôi làm thơ trong thời chiến tranh buồn bã,
và Phạm Cao Hoàng đã làm tôi nhớ lại
năm 1973. Lúc ấy tôi cũng sợ
lãnh nguyên một trái đạn vào đầu, buồn đau nhìn những
thôn làng bốc cháy, và phải đọc những bản tin hàng
ngày đầy máu và nước mắt. Sửng sốt nhận ra ước mơ hòa bình thật quá dung dị
(mà không được):
và có thể nào đêm nay không còn tiếng súng
không còn nghe tiếng còi hụ giới nghiêm
ba giờ sáng xuống Ngã Tư Quốc Tế
ăn một tô mì thơm ngát bình yên
Thật tuyệt vời cho tô mì ăn vào phút đầu tiên của
hòa bình. Chỉ có thi sĩ mới nhận ra điều thật đơn giản nhưng tuyệt vời trong
một thời kỳ bom đạn như thế.
Chiến tranh rồi cũng kết thúc. Quê nhà rồi cũng trở
về:
bâng khuâng một chút vườn sau
ngậm ngùi ngõ trước lao xao nắng vàng
đã qua chưa cuộc điêu tàn
đám mây năm cũ biết tan nơi nào
Không nơi nào cả, và mây và khói. Dưới MÂY KHÓI
kia vẫn là QUÊ NHÀ, vẫn là quê hương, mà quê hương bao giờ cũng là chỗ đẹp
hơn cả.
Cao Thoại Châu
2010
|
No comments:
Post a Comment