Friday, March 31, 2017

CHUYỆN TÌNH SÔNG TƯƠNG (Huỳnh Bá Củng)




Chyện Tình Sông Tương
Chuyện kể Cuối đời Đường, ở vùng sông Tiêu Tương thuộc huyện Linh Lăng tĩnh Hồ Nam, có nàng Lương Ý Nương, không rõ năm sinh năm mất, con ông Lương Tiêu Hổ. Nàng đẹp tuyệt trần, văn hay chữ tốt phái lòng một hàn sĩ xin ở nhờ trong nhà mình. Nàng lén lút yêu chàng. Lương ông biết được, làm nhục chàng và đuổi chàng đi. Nàng ốm o gầy mòn, làm bài thơ Trường Tương Tư để tỏ nổi lòng và giử cho chàng. Cầm lòng không được, chàng tìm đến nhà nàng, nhẫn nhục thuyết phục cha nàng. Rồi hai người được mãn nguyện lấy nhau. Bài thơ tình nổi tiếng được lan truyền khắp nơi và lan sang cả nước Nam ta. Chuyện Tình Sông Tương đi vào lịch sử văn học các nước:
Trường Tương Tư(Tương Tư Đằng Đẵng): *Lạc  hoa  lạc  diệp  lạc phân phân(Hoa rơi, lá rụng  đầy khắp)/ Tận  nhật tư  quân  bất  kiến quân(ngày ngày mãi nhớ chàng mà không gặp được chàng)/ Trường dục đoạn hề trường dục đoạn(Ruột muốn đứt,  chao  ôi,  ruột muốn đứt)/ Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân(Lệ ngọc tuôn trào từng ngấn, lại càng thêm từng ngấn) * Ngã hữu nhất thốn tâm(Thiếp có một tấc lòng)/ Vô nhân cộng ngã thuyết(Không có người bày tỏ)/ Nguyện phong xuy tán vân(Muốn gió thổi mây tan đi)/ Tố dữ thiên biên nguyệt(Để nói cùng bóng trăng bên trời). * Huề cầm thượng cao lâu(Mang đàn cầm lên lầu cao)./ Lâu cao nguyệt hoa mãn(Lầu cao trăng hoa tràn ngập)./ Tương tư vị tất chung(Khúc tương tư chưa kết thúc)/ Lệ trích cầm huyền đoạn(Nước mắt rơi làm đàn bị đứt dây) * Nhân đạo Tương Giang thâm(Người bảo sông Tương sâu)Vị  để   tương  tư   bán(Chưa bằng lòng nhớ nhau)/ Giang thâm chung hữu để(Sông sâu còn có đáy)/ Tương tư vô biên ngạn(Lòng nhớ nhau không có cõi bờ) * Ngã tại Tương giang đầu(Chàng ở đầu sông Tương)/ Quân tại Tương giang vĩ(Thiếp ở cuối sông Tương)/ Tương tư bất tương kiến(nhớ nhau mà không gặp)/ Đồng ẩm Tương giang thuỷ(Cùng uống nước sông Tương) * Mộng hồn phi bất đáo(Mộng hồn bay không tới)/ Sở khiếm duy nhất tử(Duy chỉ còn thiếu một cái chết mà thôi)/ Nhập ngã tương tư môn(Có vào cửa tương tư của thiếp)/ Tri ngã tương tư khổ(Mới biết nỗi khổ của lòng tương tư).* Trường tương tư hề, trường tương tư(Tương tư đằng đẵng, ôi, tương tư đằng đẵng)/ Trường tương tư hề, vô tận cực(Tương tư cứ kéo dài  triền miên vô tận)/ Tảo tri như thử quải nhân tâm(Nếu sớm biết (yêu thương để) lòng  người trắc trở như thế này)/ Hồi bất đương sơ mạc tương thức(Thà buổi đầu đừng quen biết nhau.-Hoàng Nguyên Chương dịch).
Người đời sau tách 2 khổ thơ gồm 8 câu(8 câu thơ đánh dấu màu xanh) của bài thơ gọp thành một bài thơ có tên Tương Giang và được lưu hành sang nước ta.
Một chút nói về địa lý và lịch sử. Tương Giang là một thứ “trường giang” ở vùng Hồ Động Đình đã đi vào lịch sử dân tộc Bách Việt. Sông Tương bắt nguồn từ núi Hải Dương(Wikipedia) ở duyên hải phía Nam, chảy lên Bắc suốt dọc tính Hồ Nam, đến Động Đình Hồ(nơi ở của Động Đình Quân là cha vợ của Kinh Dương vương có cháu ngoại là lạc Long Quân ở nước Xích Qủi), rồi vào đại giang là sông Dương Tử. Đại Việt Sử Ký TT viết: Năm Đinh Hợi(214 TCN, Tần Thủy Hoàng năm thứ 33), nhà Tần sai Đồ Thư đem lâu thuyền, sai Sử Lộc(người Bách Việt-theo Wikipedia) đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam(núi phía Nam), đánh lấy miền đất Lục Dương, đặt 3 huyện Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận(phía Bắc Giao Chỉ), cho Nhâm ngao làm Hải Úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh(Nhâm Ngao chết. Triệu Đà lập ra nước Nam Việt).
Sử Lộc đào ngòi vận lương để thực hiện thủy lộ vượt đèo(đường phân thủy giữa sông Tương ở phía Đông và sông Quế ở phía Tây) nối đầu nguồn sông Tương thuộc tĩnh Hồ Nam vào đầu nguồn sông Quế thuộc tĩnh Quảng Tây, qua một cái cống gọi là Linh Cừ. Linh Cừ nghĩa đen là cống linh thiêng, nhiệm màu. Công trình thực hiện một cái đập trên sông Tương. Trước đập người ta xây một cấu trúc gọi là Huazui(Plough share) hình lưỡi cày để xẻ nước sông Tương làm đôi đường. Một tiếp tục chảy về hạ lưu sông Tương đến Động Đình Hồ, một rẽ nước về Tây, vượt qua đèo cao 7m(độ chênh mực giữa mực nước sông Tương và đỉnh đèo) để chảy vào đầu nguồn sông Quế rồi chảy về sông Tây Giang(TG) ở Quảng Tây. Sông TG chảy về Đông, đổ ra biển ở Quảng Châu(gần Hongkong). Kênh đào chảy qua đèo gọi là cống Linh Cừ. Đây là kênh đào đầu tiên của thế giới và là kênh đầu tiên của thế giới có cữa ngăn. Cữa ngăn có nhiệm vụ điều chỉnh, nâng mực nước lên để tàu bè vượt qua cao độ.
Dọc các con sông nói trên còn là con đường đi sứ của người Đại Việt sang Tàu. Giáp phó sứ Lê Qúi Đôn kể năm 1760 ông đến bến đò Ninh Minh đầu tĩnh Quảng Tây, xuống thuyền, đến Ngô Châu, Quế Lâm, ngược dòng sông Quế, vượt cống Linh Cừ, xuôi dòng sông Tương, đến Hồ Động Đình, vào sông Dương Tử(Dương Tử đổ ra cữa biển qua đoạn sông Tiền Đường ở Hàng Châu, thuộc tĩnh Chiết Giang: 2963-Nàng đà gieo ngọc trầm châu/Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan-Truyện Kiều), đến Nam Kinh, chuyển sang sông đào Vận Hà, thẳng lên Bắc Kinh sau khi vượt qua sông Hoàng Hà.
Ngược lại, theo dòng sông Tương đi ngược về phía Nam là con đường cổ để người Tàu(NT) đi vào đất Lĩnh Nam. Về sau NT đi vào xứ này bỡi con đường dọc duyên hải qua các tĩnh: Chiết Giang, Phúc Kiến đến Quảng Đông.
Trở lại chuyện văn chương. Câu chuyện tình Sông Tương, danh từ sông Tương gợi cảm xúc để nhiều người sáng tác câu thơ, bài hát nói lên nỗi nhớ mong, thương yêu của đôi trai gái xa cách, tình yêu trắc trở.
Có một nhánh sông Tiêu ở Linh Lăng đổ nước vào sông Tương nên dân dang gọi sông Tiêu Tương cũng là sông Tương: “Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại/Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang-Chinh Phụ Ngâm.” “Sông Tương một dải nông sờ/Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia-Truyện Kiều
Lý Chi Nghĩ đời Tống có bài thơ BỐC TOÁN TỬ: “Ngã trú Trường Giang đầu(Em ở đầu Trường Giang)/Quân trú Trường Giang vĩ(Chàng ở cuối Trường Giang)/Nhật nhật tương quân bất kiến quân(Ngày ngày nhớ chàng không thấy chàng)/Cộng ẩm Trường Giang thủy(Cùng uống nước Trường Giang)/Thử thủy kỷ thời hưu(Bao giờ nước kia ngưng chảy)/Thử hận hà thời dĩ(Bao giờ sầu hận kia nguôi)/Chỉ nguyện quân tâm tự ngã tâm(Chỉ mong lòng chàng như lòng em)/Định bất phụ tương tư ý(Mới khỏi phụ lòng mong nhớ).”
 Giai Nhân Nan Tái Đắc của Cao Bá Quát: “Giai nhân nan tái đắt/Trót yêu hoa nên dan díu với tình/Mái tây hiên nguyệt gác chênh chênh/Rầu rĩ bấy xuân về oanh nhớ/Phong lưu công tử đa xuân tứ/Trường đoạn tiêu nương nhất chỉ thư/Nước sông Tương một dải nông sờ/Cho kẻ đấy người đây mong nhớ/Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi/Chữ chung tình biết nói cùng ai/Trót vì gắn bó một hai.
TƯƠNG GIANG, AI CÓ ĐỢI CHỜ của Mai Yến: “Sông Tương, sông Tương/Tơ vàng rơi mặt nước/Ngọn cỏ lau trong gió xôn xao/Sông Tương, sông Tương/Tiễn bóng tà dương/Sóng vỗ khúc yêu thương/Sáo trúc dặt dìu vương/Sông Tương, sông Tương/bến giang đầu đau lòng chinh phụ/Ngóng chinh phu qua mấy mùa Thu/Đường thiên lý mịt mờ gió cát/Ngoảnh lại nhìn mây phủ sương giăng/Tiêu Tương, một nỗi sầu nhung nhớ/Mộng trùng lai biết đến bao giờ
AI  VỀ SÔNG TƯƠNG: Nhạc khúc của Văn Giảng: Ai có về bên bến sông Tương/Nhắn người duyên dáng tôi thương/Bao ngày ôm mối tơ vương/Tháng với ngày mờ nhuốm đau thương/Tâm hồn mơ bóng em luôn/Mong vài lời em ngập hương/Thu nay về vương áng thê lương/Vắng người duyên dáng tôi thương/Mối tình tôi vẫn cô đơn./Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em/Mơ hoài hình bóng không quên,/Hương tình mộng say dịu êm/Bao ngày qua/Thu lại về mang sầu tới/Nàng say tình mới hồn tôi tơi bời/Nhìn hoa cười đón mừng vui duyên nàng/Tình thơ ngây từ đây nát tan/Hoa ơi/Thôi ngưng cười đùa lả lơi/Cùng tôi buồn đắm đừng vui chi tình/Đầy bao ngày thắm/Dày xéo tâm hồn này/Lệ sầu hoen ý thu/Ai có về bên bến sông Tương/Nhắn người duyên dáng tôi thương/Sao đành nỡ dứt tơ vương/Ôi duyên hờ từ nay bơ vơ/Dây tình tôi nắn cung tơ/Rút lòng sầu trách người mơ.Click vào link sau đây xem bai hat Ai Ve Song Tuong:
Đồng Diều, Q8 SG, mùa Thu 2016. Ongtampy.


No comments: