Hình minh họa |
BS. Tống Viết Minh
Tống Viết Minh sinh tại Quảng Bình 1946.
Ông di cư vào Nam, năm 1954 rồi định
cư tại Cam Ranh. Tốt nghiệp Y khoa bác
sĩ năm 1972. Ông thuộc vào khóa 19, Quân
Y hiện dịch.
Gia
đình ông theo Thiên chúa giáo. Thân phụ ông mong ông trở thành một linh mục.
Do đó năm 1958 ông vào học tiểu chủng viện
Sao biển ở Thanh Hải, Nha Trang. Ông học rất giỏi.
Trong những dịp nghỉ hè thường được về
quê nhà. Nhưng chính vì được về quê và vì mình có nhãn hiệu “con nhà giầu đẹp
trai học giỏi”, nên nhiều thiếu nữ có cảm tình với ông. Có lần các cô đã dám
mon men đến chủng viện thăm chàng. Thế rồi thư qua thư lại.
Kết quả bất ngờ là Minh đã rời chủng viện năm 1963. Thân phụ ông rất bất bình.
Thân mẫu ông khuyên ông nên đi tới nhà một người chị để tránh sự đổ vỡ trong
tình phụ tử. Ông vào Qui Nhơn.
Năm 1965, ông bắt đầu vào học y khoa. Ông tốt
nghiệp bác sĩ tại Y khoa Đại học đường Sài Gòn 1972.
Ông đã
xuất bản một cuốn sách nhan đề “Một thời để nhớ”.
Ông viết rất hay. Cách viết của ông, không nhằm
mục đích để người đọc, xem rồi phê bình mức độ cao thấp có tính cách hàn lâm của một chữ
hay của mỗi câu. Cũng không nêu lên một
tư tưởng triết học trong một đoạn nào. Tất cả chỉ là những kỷ niệm, những cảm
xúc của chính tác giả, cũng như những
hình ảnh, từ thanh bình, đến thảm
khốc, của quê hương.
Thưở nhỏ đi học:
… “Nhớ
những ngày mưa buồn giá lạnh, hai đứa phải cuốc bộ cắp sách
đến trường. Càng đi bùn đất càng dính cứng vào đế guốc. Đôi guốc
càng lúc càng dầy và nặng nề hơn, làm cho đôi chân bé nhỏ bước nặng nhọc hơn.
Đường lầy lội trơn trượt. Lắm lần lỡ chân hay vô ý hai đứa lại trượt té. Quần
áo lấm hết. Thế nhưng cũng phải tiếp tục đi.
Ông tả mối xúc động khi cầm tay một cô gái:
… “Nhớ trong một dịp dự sinh hoạt chung
tại Nha Trang, Minh có dịp nắm tay
nàng. Chỉ một cái nắm tay ấy cũng làm
cho chàng rung động
đến từng thớ thịt và cái cảm giác
lâng lâng ấy ở mãi
trong tâm trí chàng nhiều
ngày.”
Khi đọc đến đoạn này trong sách của Bác
sĩ Tống Viết Minh, tôi thấy Ông bạo gan
quá, và nhờ thế có được cái may mắn hơn
Nhạc sĩ Lê trạch Lựu rất nhiều. Người nhạc
sĩ tài ba này chưa dám cầm tay người yêu
để có được nỗi sung sướng :
Tôi bàng hoàng như tỉnh một giấc mơ, chờ
đợi từ bao nhiêu ngày. Thế là hai hôm sau, tôi đi bộ từ Hà Nội qua làng tôi, tới làng tạm trú của gia đình nàng. Chúng tôi đi
chơi dọc dòng sông Nhuệ. Đi chơi cùng nhau, hết cả buổi chiều, thế mà tôi không
hề dám cầm tay Phượng, điều này làm tôi ân hận tới bây giờ…
(Trích
Tơ lòng trên phim nhạc,Hồng Phong&Phi Anh.)
Mặc dầu
đã may mắn hơn nhạc sĩ Lê trạch Lựu
nhưng Ông Minh vẫn còn thua, chưa được
hưởng nỗi sung sướng tuyệt vời tay trong tay cùng truyền cảm, mà nhạc sĩ Tô Vũ đã đạt được khi ông đang bị
đau trong một ngày trời mưa dầm dề đường trơn ướt tiêu điều, được em đến thăm
anh một chiều mưa để rồi hai người mặt nhìn mặt cầm tay bâng khuâng không nói một
câu. Lời nghẹn ngào hồn anh như say như ngây vì đâu.
Quê hương Ông, Bác sĩ Minh đã vẽ lại thật thái bình:
… “Trước
hồ cá là những hàng cau với thân cao vút. Hoa cau khi nở trắng xóa, thu
hút không biết bao nhiều ong bướm từ đâu kéo về tạo nên một cảnh sinh hoạt nhộn
nhịp khác thường trông thật vui mắt. Cành lá cau khi tách thân rơi xuống đất được
dùng vào nhiều việc. Mo cau để bới cơm. Cơm đùm trong mo được nén khi còn nóng,
hạt dính vào nhau, dẫu nguội ăn vẫn rất ngon. Thỉnh thoảng năn nỉ lắm, Minh mới
được người giúp việc cho một miếng cơm đùm đặc biệt đó, chấm với mè đường hay
muối ớt, hoặc ăn với cá kho mặn, thôi thì không gì ngon bằng. Cành cau phơi khô
để lợp nhà hay làm củi đốt. Vì nhà ở xa rừng, nên rơm rạ cũng như tất cả những
gì có thể đốt cháy vẫn được tận dụng như những nguồn năng lượng chính trong việc
bếp núc. Những giây trầu mang đầy lá xanh mướt quấn quanh những cọc
gỗ thấp lè tè, khiêm nhường và chấp
nhận chen chúc nhau bên những thân cau
cao nghều nghệu, kênh kiệu và kiêu xa.”
Khi Ông tám tuổi, 1954 hiệp định Genève chia đôi đất nước. Song thân ông biết không
thể nào ở lại quê nhà vì phần đất này nằm trong lãnh thổ đã được chia cho Việt Minh.
Ông đã kể lại tình trạng của gia đình
lúc lo chạy.
… “Trong lúc ba phải bận bịu với công việc
lo di tản những người dân trong vùng, mẹ xuống Đồng Hới liên lạc với những người quen biết xem xét tình hình để
tính liệu. Khi đi mẹ đem Minh đi theo.
Gia đình đã thu xếp thuê xe di chuyển cùng đem theo một ít tài sản
từ quê vào Huế… Quãng đường không xa, chỉ hai,ba chục cây số
vượt cầu Hiền lương, đường ranh phân chia hai miền Nam Bắc để đến được vùng tự do .
Dọ
hỏi tình hình như thế nào không biết, mẹ đã có quyết định mới . Không thể chần
chờ gì được nữa, mẹ và Minh đã đi bộ từ
Đồng Hới về nhà…
Về đến nơi mẹ đã ghé vội vào nhà cũ loan
tin dự tính mới, trước khi tiếp tục cùng Minh đến căn nhà ba mẹ vừa xây xong cạnh
bờ sông, nằm gần đồn Mỹ Trung để thông báo với
ba những gì đã chứng kiến, rồi cùng đi đến quyết định chung: Không mang theo bất cứ một
vật gì ngoài đồ tùy thân và hủy bỏ dự định
di chuyển bằng xe .Gia đình sau đó được ba dàn xếp xe quân đội đến chở xuống
Đồng Hới, để bằng những phương tiện khác nhau, người máy bay, kẻ tàu thuỷ
lìa bỏ quê hương đến vùng tự do.
Thật hết sức may mắn, mãi cho đến nhiều
năm sau, ba mẹ mới được biết người tài xế
chủ nhân chiếc xe gia đình thuê di chuyển đã thông đồng bán đứng cả gia đình
trên đường trốn vào Nam cho đối phương. Cán bộ Việt Minh về họp nhiều lần nơi
người hàng xóm cách nhà Minh trong kế hoạch trên.”
Sống ở trong Nam, sự học của Ông tiến
triển đều vì Ông vốn học rất giỏi.
Năm 1965 Ông vào học Y khoa Đại học đường
Sài Gòn. Năm 1972, Ông ra trường. Và được mang cấp bậc Y sĩ Trung uý và bắt đầu đi ra đơn vị.
Khi đọc quyển sách Một thời để nhớ của
Bác sĩ Tống Viết Minh , tôi đặc biệt để
ý đến giai đoạn này.
Ngay khi bước chân vào con đường đi phục
vụ đất nước, Ông đã kể cho chúng ta một
sự tương phản .
Thông thường ai cũng nghĩ rằng, những
người ở trong quân đội, từ những cấp chỉ huy cho đến lính, đều thường có thái độ của những kẻ bị gọi
là võ biền. Còn những kẻ đi học, hoặc là
những người có bằng cấp cao, bao giờ cũng được xem như có cách cư xử của văn nhân , nói nôm là nhẹ nhàng.
Thế nhưng đôi khi sự thật lại trái ngược.
Xin đọc những phần viết dưới đây của Bác sĩ Minh.
…
…“Sau khi dùng điểm tâm, người cậu vợ chở chàng đến Bộ Chỉ Huy liên đoàn 71 Quân
Y như đã dự tính. Tại đây mình gặp lại Thiện. Hai đứa cùng cảnh ngộ gặp nhau tại
đơn vị mới, khuôn mặt anh nào cũng ngơ ngác không khác gì “nai tơ trong rừng vắng” hoặc “gái mới về nhà
chồng”. Sau khi trình sự vụ lệnh cho phòng nhân viên, Minh cùng bạn được mời ngồi
ở phòng khách chờ trình diện bác sĩ liên đoàn phó. Bác sĩ liên đoàn trưởng
không có mặt ở đó vì bận công vụ.
Chờ mãi một lúc khá lâu Minh và Thiện mới
được mời vào gặp. Khi đến lượt mình, Minh đã theo đúng binh thư, đứng theo tư
thế nghiêm trình diện, chào lớn tiếng:
“Y sĩ Trung uý Tống viết Minh số quân
67/807-684 trình diện Y sĩ Thiếu tá Liên đoàn phó.”
Hình ảnh người đàn anh ra trường trước bọn
Minh có lẽ trên dưới 10 năm không bao giờ xoá mờ trong tâm trí Minh: một người đàn ông khoảng
40 tuổi với khuôn mặt phì nộn.
Ông ta ngồi dựa trên chiếc ghế sắt bọc
da, nhìn hai người với đôi mắt cú vọ. Im lặng hoàn toàn bao phủ căn phòng. Một
thứ im lặng làm Minh cảm thấy khó chịu. Sau khi gác hai chân bó gọn trong đôi giày trận hẳn lên trên bàn,
ông ta vừa đu đưa qua lại trên chiếc ghế, vừa tiếp nhận đàn em và cũng là đồng
nghiệp mình. Ông nhìn từ Thiện đến Minh rồi hằn giọng:
“Mấy toa làm gì mà đến hôm nay mới
ra trình diện? Nếu hôm nay không thấy mấy
toa nữa là moa cho báo cáo đào ngũ rồi đó!” .Giọng Huế phát ra từ khuôn mặt béo
phì nghe thật khó thương!
Cả Minh lẫn Thiện không ai mở miệng. Mỗi
đứa theo đuổi một tư tưởng riêng. Minh tự nhủ không hiểu sáng nay phòng mạch vắng
khách hay mới bị bà xã xài xể , lại đổ bao bực dọc lên đầu hai đứa đàn em vô tội
này đây.
Sự đón tiếp chẳng mấy thiện cảm, mất lịch
sự và đầy hách dịch của người đàn anh đã làm bọn Minh trở thành như tượng đá…
Bác sĩ Minh được gửi đi tới trình diện một lữ đoàn thiết
giáp.
…
“Đại tá Vũ quốc Gia, tư lệnh lữ đoàn, trạc hơn 40 tuổi, đầu tóc húi cao, khuôn
mặt cương nghị gọn ghẽ trong bộ quân phục kaki vàng thay vì bộ đồ tác chiến, đã
hết sức niềm nở đón tiếp hai người bác sĩ trong văn phòng của
ông. Sau khi bảo người cần vụ pha một bình trà ngon đãi khách, vị tư lệnh ân cần
hỏi han người bác sĩ trẻ vừa mới được tăng phái đến phục vụ đơn vị. Bình trà
nóng được mang ra, chính tay ông đích
thân rót từng tách một mời khách. Sau khi uống một hớp trà ngon, với
giọng Bắc trầm, ông ôn tồn trình bày một
cách vắn tắt nhưng mạch lạ cơ cấu tổ chức của lữ đoàn, cũng như những gì lữ
đoàn mong đợi từ toán quân y tăng phái…
Quả thật Minh không ngờ một người chỉ
huy, trong tay có bao nhiêu quân lính, cùng với hàng trăm chiếc xe, từ những
chiếc xe bọc sắt đã không còn mấy hữu hiệu với tình hình chiến trường hiện nay,
cho đến những thiết vận xa có khả năng di chuyển qua các vùng sình lầy, kinh lạch
sông ngòi, hoặc các chiến xa hiện đại nhất,
lại có tư cách thật phong nhã của một kẻ
sĩ hơn là một nhà chỉ huy quân sự như thế.
Ông không hề ngại khi nhắc đến cái giọng
Huế thật khó thương của một đàn anh.
Minh là một quân y sĩ nhưng ông cũng không sợ khi phải nói ra thái độ hách dịch
đáng khinh của một Bác Sĩ. Ông không bị ràng buộc bởi cái quan niệm “xấu chàng hổ ai” , nên mới tường thuật được
như thế.
Rồi Ông
trình diện một vị Đại Tá Thiết Giáp, người Bắc ,có cách cư xử
khác hẳn. Minh chẳng quen,không biết gì vị Đại Tá, nhưng đã viết ra cung cách thật đáng trọng của
cấp chỉ huy này.
Tôi hiểu ông Minh,trong thời gian ở Tiểu Chủng Viện Sao Biển, đã thấm
nhuần được Giáo lý Thiên Chúa Giáo. Và
như một câu trong Thánh Kinh, Ông đã trở
thành:
“Là con
người mà bước đường họ đi không có gì
để chê trách, họ làm điều gì phải, họ nói sự thật từ trái tim của họ; lưỡi của họ
không nói lời vu khống, họ không làm điều
gì trái đối với người hàng xóm,và không ném ra lời chửi rủa nào tới những kẻ
khác.”
(Psalm 15:2-3)
Đọc đoạn văn trên của Bác sĩ Minh, người
ta có thể gạt bỏ cái quan niệm về võ biền
hay văn nhã, hoặc trọng văn khinh võ đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt và cả người Trung Hoa nữa .
Đoạn văn nói về Huế của Tống Viết Minh rất thê lương:
… “Huế
đã mất cái nét kiều diễm, kiêu sa và
thơ mộng được nhắc đến trong văn
chương để khoác lên mình một bộ mặt mới. Các con đò vẫn ngược xuôi. Sông Hương
vẫn lững lờ trôi. Những cây phượng vẫn trải thảm hoa đỏ rực bên chân cầu Trường
Tiền. Con đường Lê Lợi vẫn còn đây. Đồng Khánh, Quốc học vẫn còn đó, thế nhưng
Huế thay đổi thật nhiều.
Huế đã lột xác để biến thành một thành phố
lính, một thành phố quân sự. Đi đâu cũng gặp lính và những gì thuộc về lính. Gần
như không thiếu một binh chủng nào, từ Nhảy Dù, Thủy quân lục chiến, Biệt động
quân, Sư đoàn 1, cho đến Thiết giáp, Pháo binh, Công Binh, Địa phương quân,
Không quân, Hải quân, Biệt Kích Nhảy Dù. Người ta có thể thấy đủ mọi loại xe
nhà binh, từ những chiếc xe Jeep,xe GMC, xe trọng tải có bàn tiếp hậu còn được gọi là xe lô bồi ,cho đến cả các
khẩu đại bác , các chiến xa di chuyển trên đường ra chiến trường, hay đang nằm
án ngữ
ở một vị trí chiến lược nào đó trong thành phố.
Dáng dấp yêu kiều của các nữ sĩ trong những
chiếc áo dài bay trong gió, lượt là trong con đường Lê Lợi hãy thướt tha trên cầu
Tràng Tiền, cầu Bạch Hổ, những cô gái Huế nổi tiếng duyên dáng được nhắc đến qua hai câu thơ :
Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế bước đi không đành.
(Ca dao dân gian
Việt Nam.)
đã biến mất nhường chỗ cho các ông bà cụ
già không buồn rời xa cái thành phố này vì đã quá già yếu hay không biết chạy
đi đâu để lánh nạn, và nào lính và lính.
Có thể nói Huế đã trở thành một thành phố không có bóng dáng đàn bà, ngay cả đội
ngũ những cô gái giang hồ sinh sống trên sông Hương, trên những chiếc đò ngược xuôi, họ cũng đã rời xa dòng sông đi
lánh nạn ở các thành phố khác
Huế
đã bước vào mùa mưa. Nhiều hôm trời mưa không dứt kéo dài từ ngày này
sang ngày nọ…
…Các chuyến bay bị hủy ảnh hưởng đến
không những người sống mà còn cho cả người
đã khuất…
Các tử sĩ nằm xếp lớp khắc khoải chờ đợi
chuyến bay ngày này qua ngày nọ ở sân bay Phú Bài . Vết thương do bom đạn cướp
mất đời trai trẻ đã khô từ lâu . Họ đã chảy những giọt máu cuối cùng cho đất Mẹ,
nay không có lại một giọt nào nữa để chảy. Thời tiết khắc nghiệt làm cho thân
xác họ, sau nhiều ngày chờ đợi nay đã bắt
đầu ung rữa. Dầu các cỗ áo quan có bọc kẽm và Mẹ Việt Nam có cố gắng ôm những
người con yêu của mình vào lòng để gọi trọn trong Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, vẫn
không ngăn được mùi hôi thoát ra từ thân
xác những người con yêu.
Khi mưa bắt đầu thưa, gió ngừng, bầu trời
quang đãng trở lại, vận chuyển bằng đường hàng không đã có thể tái lập.
Minh may mắn được phi công trưởng một
trong những chuyến bay vận chuyển các quan tài các tử sĩ đồng ý cho quá giang về
Sài Gòn. Chuyến bay trên chiếc C119 cũ kỹ và già nua từ thời Thế chiến thứ II
còn sót lại, với hình dáng ngộ nghĩnh không khác gì chiếc bừa của người nông
dân, đã để lại cho Minh một kỷ niệm không bao giờ quên.
Ngoài hai ghế dành cho phi công ngồi ở
buồng lái, tất cả các hàng ghế ở thân phi cơ đã được xếp lại. Những chiếc quan tài phủ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ được xếp
từng hàng rất ngay ngắn và kính cẩn buộc chặt vào trên những tấm vỉ nhôm, sau đó được đặt nằm
trong lòng phi cơ. Có lẽ Minh là người bác sĩ quân y người duy nhất được hân hạnh
đáp một trong những chuyến bay chở những người con yêu tổ quốc về quê Mẹ trong
chiến cuộc Việt Nam nói trên.
Khi máy bay lên cao, áp suất không khí
làm cho những thân xác đang thối rữa tiết
ra một mùi hôi rất khó chịu. Vì không chuẩn bị từ trước, nên dù cố gắng di chuyển
hết vị thế này đến vị thế khác, Minh vẫn không sao tìm được một chỗ nào trên
phi cơ có thể bớt được mùi vị nồng nặc
đó được, và mặc dầu sau bao nhiêu năm học, rất quen với đủ thứ mùi, ngay cả đến những gì hôi thối nhất, cố gắng lắm Minh
mới ngăn mình khỏi nôn.
Chuyến bay đáng ghi ấy đưa Minh về được
thành phố đúng với những gì đã tính. Tuy chịu đựng mấy giờ, nhưng kỷ niệm có một
không hai trong đời này đã làm cho Minh
rất thán phục các phi công không quân Việt Nam, hết chuyến này đến chuyến nọ,
ngày này qua ngày khác, vượt qua bao khó khăn trong sứ mạng xem ra nhẹ nhàng,
nhưng đòi hòi một sự hy sinh lớn lao mà có lẽ ít người biết được.
Mặc
dầu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã quyết tâm chiến đấu hết sức , và đã hy sinh tối
đa, trước cuộc xâm lăng của Bắc Việt, nhưng miền Nam cuối cùng vẫn bị bức tử.
Thuở Minh còn nhỏ, song thân ông đã đưa được gia đình
chạy khỏi vùng Việt Cộng. Đến năm 1975, khi 29 tuổi, chính ông lại một phen tìm cách đưa gia đình thoát khỏi vùng sắp
bị Cộng sản Bắc Việt chiếm.
Bác sĩ
Trần Xuân Dũng
(Trích Văn
Học Quân Đội)
1 comment:
day la mot ca nhan vo tu cach voi phu nu. Va phe binh quan doi VNCH khong du'ng, co tinh cach vo dua ca nam va ma ly. Khong xung dang dai dien dai hoc y khoa saigon. quy vi khong nen viet bai ca tung mot ca nhan nhu vay dang len mang luoi.
Post a Comment