Tùy bút
CHỈ CÒN LÀ KỶ NIỆM
ĐIỆP MỸ LINH
(Để tưởng nhớ hai em – Nguyễn
Phiêu Linh, Hồ Quang Trung – và kính tặng tất cả Cựu SVSQ/TB/TĐ khóa 6/68 và
khóa 4/68)
Dù ngày xưa bạn cùng lớp đã “xầm
xì” rằng “hắn” hoạt động cho Việt Cộng, tôi cũng không tin; vì – với trí óc non
nớt của một nữ sinh trung học cùng với bản tính ngay thẳng, lương thiện – tôi
nghĩ, nếu “hắn” thích Việt Cộng thì “hắn” ở lại ngoài Bắc chứ “hắn” theo gia
đình di cư vào Nam để làm gì!
Mấy mươi năm sau tôi mới biết, sau khi đỗ
Tú Tài II, “hắn” được sang Pháp du học và hiện nay “hắn” đang giữ một chức vụ
quan trọng trong guồng máy đầy ác tính của Cộng Sản Việt-Nam.
Nhìn hình của “hắn” và đọc bảng tin báo
trong nước viết về “hắn”, tôi ngồi bất động. Những thành tích nội tuyến và phản
chiến của “hắn”, ngày xưa, và bằng cấp của “hắn”, hiện tại, không hiểu có
chinh phục được ai hay không; nhưng đối với riêng tôi, tôi hoàn toàn không muốn
bị nhận là người bạn xưa của “hắn” dưới mái trường Võ Tánh.
Đối với tôi, từ ngày mới lớn cho đến bây
giờ, khi nghĩ về nam giới, hình ảnh tôi ngưỡng phục nhất là chàng trai trong
quân phục; và hình ảnh tôi yêu thích nhất là chàng trai với cây đàn.
Nhìn hình của “hắn” một lúc, tự dưng nước
mắt của tôi nhạt nhòa mà tôi không hiểu nguyên nhân. Một lúc sau, qua màn nước
mắt, tôi không thấy hình của “hắn” nữa nhưng tôi lại tưởng như tôi thấy được những
người bạn ngày xưa cùng học trường Võ Tánh như: Đặng Hữu Thân, “dân B1”; Ngô Đắc
Phú, Lưu Khương Đức “dân B4”; Võ Ấm, “dân B3”; Nguyễn Đình Tân,
“dân B2” v. v… Trong những hình ảnh vừa hào hùng, vừa thân thương vừa bi thảm của
những thanh niên miền Nam đã gục ngã trong cuộc chiến do Cộng Sản Việt-Nam chủ
xướng, tôi nhận ra Chú của các con tôi: Thiếu Úy Biệt Động Quân Hồ Quang Trung,
xuất thân khóa 4/68 sĩ quan trừ bị Thủ-Đức.
Trung cao dong dõng, đẹp trai, tính tình
hiền hòa, nhã nhặn và có ngón đàn Tây Ban Cầm rất nhuyễn. Khi nào về phép Trung
cũng ghé thăm tôi. Thỉnh thoảng Trung ôm Guitar, “từng tưng” vài đoản khúc bán
cổ điển cho tôi nghe. Đôi khi nghe Trung đàn những bản tôi thích, tôi cũng “la
là la” và gật gù theo tiếng đàn. Tình khúc Trung thích nhất là Mấy Dậm Sơn Khê
của Nguyễn Văn Đông. Tôi thường “ngân nga” theo và tôi đổi chủ từ cũng như túc
từ để thích hợp cho tình cảnh giữa chị em tôi: “Em đến thăm, áo em mùi
thuốc súng ngoài mưa khuya lê thê ... Em đến đây rồi em như bóng mây…Em hỡi em,
đường xa vui đấu tranh, giữa khung trời gió lộng, nghìn sau tiếc nghìn xưa!” Vừa
“nghêu ngao” hát vừa nhìn bộ quân phục hoa rừng của Trung tự dưng tôi cảm thấy
nao nao trong lòng một niềm ray rức!
Trước khi trở lại đơn vị, Trung cũng thường
ghé nhà từ giã tôi. Không thể giấu sự lo âu khi Trung bảo đơn vị của Trung sẽ
được điều động về Bình-Long, An-Lộc, tôi khuyên:
-Chú cẩn thận.
-Em không can chi mô. Chị đừng
có lo.
Nhìn dáng Trung xa dần, tôi chợt liên tưởng
đến em tôi: Thiếu úy Pháo Binh Nguyễn Phiêu Linh, xuất thân khóa 6/68 Trường Bộ
Binh Thủ-Đức, đang biệt phái cho mặt trận Đức-Lập. Tôi âm thầm cầu nguyện cho
Trung và Linh.
Một sáng mùa Hạ năm 1972, chiếc Jeep dừng
ngay trước nhà tôi rồi một quân nhân Biệt Động Quân đẩy cổng, bước vào, gõ cửa.
Tôi hơi mất bình tĩnh. Bà giúp việc mở cửa.
Anh Biệt Động Quân bước vào. Tôi nhìn quân nhân này, run giọng:
-Thiếu úy Trung… làm sao rồi, anh?
-Thưa bà, thiếu úy Trung bị
thương, đã được trực thăng đưa về bệnh viện dã chiến Vũng Tàu.
-Dạ, cảm ơn anh. Tình trạng
của chú Trung như thế nào ạ?
-Tôi không rõ lắm; vì tôi
không có mặt khi đơn vị của thiếu úy Trung đụng trận và tôi cũng chưa đến bệnh
viện dã chiến Vũng Tàu.
Không kịp từ giã người đưa tin, tôi cảm
ơn anh một lần nữa rồi vội lách người qua cửa để chạy vào báo tin cho Mạ (Mẹ)
và Hà – vợ của Trung.
Mạ ngồi sững như pho tượng trong khi Hà
khóc nức nở khiến hai đứa con của Trung cũng òa lên khóc. Vừa dỗ dành con Hà vừa
khóc vừa lấy vài thứ cần dùng cho vào xách. Mạ ngạc nhiên:
-Sửa soạn đi mô rứa?
Hà khóc lớn hơn:
-Con đi thăm chồng con.
Mạ ngăn lại:
-Biết cái chi mà đòi đi. Để nhờ chị
Hai hắn ra coi tình trạng hắn ra răng rồi tính.
Quay sang tôi, Mạ bảo:
-Chao ôi! Thiệt là khổ! Anh Minh của
hắn không có ở nhà, chừ con coi giúp Mạ được chi thì con giúp, nghe. Con quen
ai bên Biệt Động Quân thì con xin cho hắn về hậu cứ chứ hắn bị thương mà hắn trở
ra mặt trận Mạ sợ quá, con ơi!
Tại bệnh viện dã chiến, thấy mặt và tay
chân của Trung vẫn nguyên vẹn, tôi thầm mừng. Tôi dặn Trung:
-Chú chịu khó chờ. Mai tôi sẽ đưa
các cháu đi Bến-Lức thăm anh Minh. Tôi sẽ hỏi anh Minh xem anh Minh quen ai bên
Biệt Động Quân…
Tôi chưa dứt câu, Trung đã nhìn tôi,
nghiêm nét mặt:
-Chị đưa các cháu đi thăm anh Hai
thì chị đưa; còn anh Hai quen ai bên Biệt Động Quân để làm chi, chị Hai?
Lần đầu tiên từ ngày làm vợ của Minh tôi
mới nghe Trung nói chuyện với tôi một cách cứng rắn và nghiêm nghị như vậy. Tôi
không quen nói dối:
-Ý Mạ muốn xin cho chú về hậu cứ.
-Chị Hai! Em tình nguyện về
Biệt Động Quân không phải với mục đích để làm việc tại văn phòng. Em có trách
nhiệm, em có bổn phận, em có đơn vị của em.
-Chú giận tôi, phải không?
Tôi xin lỗi.
Nét mặt của Trung dịu lại:
-Đời mô em dám giận chị. Em chỉ
hơi bực mình vì em đã không muốn cho Mạ, Hà và chị biết tin em bị thương; rứa
mà đứa mô thày lay…
May quá, vì lúc sáng vội vàng, tôi không
để ý tên người lính Biệt Động Quân đưa tin cho nên tôi không cảm thấy bị khó chịu
vì không nói ra sự thật. Trung nhìn đồng hồ tay, tiếp:
-Chiều rồi, chị nên đi về kẻo mấy
cháu trông.
Hôm sau, sau khi đưa các con đến Căn Cứ
Hải-Quân Bến-Lức, tôi mới được sĩ quan trực cho biết Minh đi hành quân, chiều mới
về. Như thường lệ, mỗi khi đến với đơn vị Hải-Quân, tôi thích thay y phục dân sự
bằng quân phục thủy thủ. Vừa mang đôi ba-ta xong, tôi nghe tiếng gõ cửa. Mở cửa,
tôi thấy chú tài xế của Minh. Chú ấy nói:
-Cô cho em đưa mấy đứa nhỏ ra bãi
đáp trực thăng đón Chỉ Huy Trưởng, nha, cô.
Tôi chưa biết đáp như thế nào thì nghe
tiếng bốn đứa con của tôi – ngồi sẵn trên xe Jeep – reo lên:
-Măng! Măng! Cho tụi con đi đón
Ba, nhen, măng!
Tôi chỉ biết cười, vẫy tay rồi đóng cửa
lại.
Chỉ một chốc sau, tôi nghe tiếng xe thắng
“két” rồi cửa phòng mở toanh và con gái lớn của tôi hớt hãi chạy vào:
-Măng! Măng! Trực thăng… rớt rồi!
Tôi hoảng hốt chạy vội ra cửa thì thấy
chú tài xế đang ôm ba đứa con của tôi như thể trấn an. Và, tôi thấy, từ khắp mọi
nẽo đường của Căn Cứ Hải-Quân Bến-Lức mọi người chạy ùa về hướng cầu tàu. Tôi chạy
theo dòng người, bỏ mặc các con tôi.
Tiếng xe hồng thập tự từ ngoài cổng gác
vọng vào. Mọi người rẻ sang hai bên, nhường lối. Xe cứu thương từ từ “de” lui về
hướng bờ sông. Một chiếc ghe câu cặp bến. Vì đứng xa, tôi không thể thấy được
những người trong lòng ghe. Mỗi khi chiếc băng-ca khiêng một người – không phải
là Minh – đi ngang, tôi cảm thấy như tôi sắp quỵ xuống; vì tôi ngại Minh đã chết
hoặc mất tích trong dòng sông sâu. Trong khi tôi tưởng như sự chịu đựng trong
tôi đã cạn kiệt thì bỗng dưng, từ bờ sông, một anh thủy thủ vừa vội vàng chạy về
phía tôi vừa reo lên:
-Cô ơi, cô! Em thấy Chỉ Huy Trưởng
rồi! Em thấy Chỉ Huy Trưởng rồi!
Vài người quay nhìn tôi rồi dạt ra hai
bên, tránh lối cho tôi. Tôi bước ra vừa khi chiếc băng-ca có Minh nằm bên trong
được khiêng về hướng chiếc xe cứu thương. Tôi chạy theo, thấy máu nhuộm ướt mặt
Minh. Khi xe cứu thương rồ máy, tôi tự động leo vào. Nhìn lui, tôi thấy chú tài
xế của Minh chở các con tôi chạy theo.
Trên chuyến trực thăng tải thương từ bệnh
viện Long An về quân y viện Cộng Hòa, tôi tự hỏi không hiểu trái tim của Mạ còn
đủ chỗ để chấp nhận thêm tin Minh bị thương hay không!
Sau khi y tá đưa Minh vào phòng Điện Tuyến,
tôi thấy một bác sĩ đi về phía tôi. Tôi vui khi nhận ra đó là bác sĩ Vĩnh. Sau
vài câu thăm hỏi về gia đình, Vĩnh hỏi tôi nguyên do nào Minh bị thương nặng
như vậy. Tôi thầm ngạc nhiên vì Vĩnh tỏ ra bặc thiệp và nói nhiều hơn xưa. Tôi
bảo Minh bị rớt trực thăng. Vĩnh tròn mắt:
-Hải-Quân mà lại bị rớt trực
thăng?
-Dạ, anh ấy đi thanh tra những
điểm đỗ quân.
-Minh làm gì mà đi thanh
tra?
-Dạ, anh ấy là chỉ huy trưởng
Liên Đoàn I Ngăn Chận kiêm chỉ huy trưởng một đơn vị Đặc Nhiệm của Lực Lượng Tuần
Thám.
-Bỏ đàn bỏ hát để nghiên cứu
về Hải-Quân hay sao mà biết nhiều quá vậy?
Tôi cười gượng, chưa kịp đáp thì thấy
chú tài xế của Minh vừa đưa các con của tôi từ Bến Lức về tới. Tôi cáo từ Vĩnh
để ra xe với các con tôi.
Tôi nhờ chú tài đưa các con tôi về nhà,
nhờ bà giúp việc lo cho các cháu. Trước khi xe nổ máy, tôi chợt nhớ, vội dặn
chú tài đừng cho Mạ biết tin Minh bị thương, ngại Mạ lo. Xoay sang các con, tôi
cũng dặn như vậy. Các cháu ngạc nhiên:
-Măng biểu tụi con không được nói
láo mà!
Hơi
lúng túng một lúc tôi mới tìm ra giải pháp:
-Thôi, được rồi. Mấy con không được
vô nhà bà Nội. Khi nào bà Nội hoặc các cô chú hoặc thiếm Trung ghé nhà mình thì
mấy con phải chạy ngay lên lầu, không được gặp bà Nội, thiếm Trung hoặc các cô
chú. Chịu chưa?
Nét mặt của các con tôi tiu nghỉu, buồn
xo.
Suốt thời gian dài thăm nuôi Minh, tôi vẫn
chưa cho Minh biết tin Trung bị thương. Và tôi cũng không có thời gian để ra
Vũng-Tàu thăm Trung.
Một hôm, đang sửa soạn các thứ cần dùng
để đem lên bệnh viện Cộng Hòa cho Minh, tôi thấy Trung bước vào nhà. Tôi ngạc
nhiên. Trung bảo bác sĩ cho Trung xuất viện và Trung từ chối mấy ngày phép dưỡng
thương; vì đơn vị của Trung bị “tụi hắn quần thảo liên miên!” Nhận ra nét ái ngại
của tôi, Trung – trong quân phục Biệt Động Quân, giày trận, mũ nâu – đứng thẳng,
cụp hai chân trong thế nghiêm rồi ưỡng ngực, bảo:
-Em ‘ngon lành’ như ri mà chị lo
cái chi?
Tôi cười rồi cho Trung biết Minh bị
thương. Trung ngồi lặng yên, nhíu mày suy nghĩ rất lâu rồi bảo:
-Chị Hai! Em chỉ đủ thì giờ ghé
thăm Mạ/thăm chị và vợ con em rồi em phải trở ra đơn vị ngay. Em không thể ghé
thăm anh Hai.”
Nói
xong Trung vội vàng từ giã tôi.
Tiễn Trung ra cổng, nhìn chiếc mũ nâu của
Trung chập chờn, khi ẩn khi hiện trong dòng người, tôi cảm nhận được niềm hãnh
diện hòa lẫn với nỗi lo âu trong lòng tôi!
Niềm lo âu trong tôi về sự trở lại chiến
trường Bình-Long của Trung cũng không khác mấy so với sự ái ngại của tôi khi biết
Minh – sau khi xuất viện và nghỉ bảy ngày phép dưỡng thương – được lệnh phục vụ
trên Tuần Dương Hạm Trần Quang Khải, HQ 2, để thực tập làm Hạm Trưởng; vì tôi
hiểu Minh chịu sóng không được!
Trong thời gian âu lo cho Trung và Minh,
tôi quên bẳng Nguyễn Phiêu Linh. Như để nhắc nhở sự vô tình của tôi, một nhân
viên truyền tin từ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đến nhà, đưa tin:
-Thưa bà! Ông Nguyễn Văn Ngữ, Trưởng
Ty Nội An thị xã Cam-Ranh, nhờ Trung Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Cam-Ranh chuyển
tin đến bà là thiếu úy Nguyễn Phiêu Linh đã mất tích ở mặt trận Đức-Lập!
Tôi há hóc mồm, nhìn sững người đưa tin,
không thốt được một lời!
Sau một thoáng khủng hoảng tinh thần,
tôi quỳ xuống, nhìn lên bàn thờ Phật niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ Tác. Tôi
cứ thành tâm cầu nguyện Phật Bà mỗi ngày, mỗi đêm. Như một sự linh nghiệm từ Phật
Bà, khoảng một tuần sau, tôi nhận được điện tín của Ba tôi: “Linh bị Việt
Cộng bắt. Linh đã vượt thoát về trình diện đơn vị.” Tôi lại quỳ xuống,
nhìn lên bàn thờ Phật, âm thầm tạ ơn Phật Bà.
Thời gian này – mùa Hè năm 1972 – Vùng
I, Vùng II và Vùng III Chiến Thuật chìm trong khói lửa, vì những trận tấn công
quy mô và ác liệt của Việt Cộng. Chỉ có Vùng IV tương đối bình yên.
Theo dõi tin tức qua báo chí/radio/TV,
tôi rất lo âu cho Trung và Linh. Vì đơn vị của Linh thuộc Vùng III chiến thuật;
đơn vị của Trung lại gần vị trí của Tướng Tử Thủ Lê Văn Hưng. Theo dõi tin tức,
biết Bình Long – An Lộc mỗi ngày phải “nhận” không biết bao nhiêu ngàn quả đại
pháo của Việt Cộng, tôi xốn xang và âu lo cho người em chồng mà tôi thương như
em ruột của tôi!
Rồi một sáng sớm, chiếc Jeep dừng trước
nhà, một quân nhân mặc quân phục Biệt Động Quân bước vào. Như linh cảm được điều
gì đó, tôi run quá, đứng xa xa để bà giúp việc mở cửa. Anh Biệt Động Quân nhìn
tôi:
-Thưa, bà có phải là bà Minh không
ạ?
Nhìn nét mặt nghiêm và đôi mắt của anh
Biệt Động Quân như ẩn chứa điều gì rất khó tả, tôi cảm biết rằng tôi không thể
đứng vững được, cho nên, tôi dựa vào tường, vừa bước dần về ghế xa-lông vừa
nhìn anh Biệt Động Quân vừa gật đầu. Như nhận biết sự xúc động tột cùng của
tôi, anh Biệt Động Quân đến bên tôi:
-Bà bình tĩnh. Bà ngồi vào xa-lông
đi.
Vừa ngồi vào xa-lông vừa nhìn anh Biệt Động
Quân, môi tôi run và trệ xuống như sắp khóc, tôi hỏi từng tiếng:
-Thiếu úy Trung tử trận rồi, phải
không?
Anh Biệt Động Quân đứng im, cúi mặt…
Tiếng xe Jeep rồ máy khiến tôi choàng
tĩnh. Tôi hiểu rằng tôi phải bình tĩnh/phải dồn tối đa nghị lực để giúp Mạ và
Hà vượt qua cơn đau này! Tôi biết, nếu, ngay giờ phút này, tôi vào cho Mạ và Hà
hay tin Trung tử trận thì không thể nào tôi đủ sáng suốt để làm bất cứ điều gì
cho Trung khi quan tài của Trung được đưa về! Tôi quyết định sẽ tin cho Mạ và
Hà biết sau khi tôi lo xong vài việc quan trọng cho Trung.
Tôi sang Bộ Tư Lệnh Hải-Quân, nhờ trung
tâm Truyền Tin thông báo cho HQ 2: “Em ruột của Hải-Quân trung tá Hồ
Quang Minh là thiếu úy Biệt Động Quân Hồ Quang Trung đã tử trận tại Bình-Long”.
Sau đó tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm xin nghi thức tụng niệm và nơi quàng
quan tài của Trung. Và tôi ghé nhà người anh của Cố thiếu úy Võ Ấm. Anh này là
chánh văn phòng của một nhân vật đầy uy quyền. Tôi nhờ anh xin cho Trung một phần
mộ trong nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
Trên những đoạn đường lo việc hậu sự cho
Trung, trong tâm tôi đã sắp sẵn một bài viết về Trung.
Nếu trên đời, trong địa hạc văn chương,
có điều gì tôi hối tiếc nhất, thì đó là bài tôi viết cho Hồ Quang Trung, đăng
trên báo Tia Sáng, mà nay tôi chỉ nhớ được câu cuối cùng: “Từ nay, chị sẽ
tìm hình bóng em qua nhân dáng oai hùng của Người Lính Mũ Nâu!”…
… Đang chìm đắm trong dòng hồi tưởng buồn
thảm, chợt điện thoại reng, đưa tôi trở về hiện tại. Tôi “Allo”. Từ đầu giây
bên kia, giọng nam, nói tiếng Anh:
- Chúc mừng ngày của Mẹ.
Tôi cũng đáp bằng tiếng Anh
- Cảm ơn. Xin lỗi, ai đây?
- Tôi là người bị bà dọa gọi
cảnh sát bắt đây.
Tôi giật mình, nhớ lại cách nay vài hôm,
trong buổi chiều đi bộ tập thể dục, điện thoại cầm tay của tôi reng hoài mà khi
mở ra, “allo”, thì không ai trả lời. Nghĩ rằng có người phá cho nên tôi bực
mình, nói tiếng Anh: “Làm ơn đừng gọi số này nữa. Nếu gọi một lần nữa,
tôi sẽ lấy số điện thoại của bạn rồi tôi sẽ thưa cảnh sát.” Tôi đáp:
-Vâng, tôi có nói như vậy; vì tôi
không biết ông là ai mà cứ gọi phá tôi nhiều lần.
Đầu giây bên kia phát âm tiếng Việt:
-Tại điện thoại của tôi bị trục trặc
chứ ai phá …bà làm chi.
Tiếng “bà” và giọng Huế khiến tôi nhận
ra đây là Toàn, tác giả nhiều tác phẩm tình cảm xã hội và nhiều thước phim chiến
trường. Toàn cũng là bạn thân của Minh từ xưa. Toàn cũng biết tôi từ khi tôi
còn học trung học. Ngày xưa Toàn dạy tại trường Cường Để cho nên tôi gọi Toàn bằng
“thầy”; sang Mỹ Toàn học lại và tốt nghiệp bác sĩ nhãn khoa. Tôi cười:
-Dạ thưa Thầy.
-Sao? Thằng bạn già của tôi
sao rồi?
- Dạ, ổng dạo này sướng lắm
Thầy ơi! Người ta “sáng vác ô đi, tối vác về”; còn ổng thì sáng xách xe đi, tối
xách xe về.
- Còn bà, đang làm gì đó?
- Dạ, em đang đọc tin tức về
Việt-Nam.
- Bà có gì lạ không?
- Dạ, em sắp đi Cali. Còn Thầy
đang ở đâu?
- Tôi đang ở D.C. thăm con và lo
vài chuyện, ba tuần nữa mới về Cali. Bà đi Cali. có việc gì?
- Dạ, em tham dự Hội Ngộ của
khóa 6/68 sĩ quan Thủ-Đức.
- Bà có liên hệ gì với Trường
Bộ-Binh Thủ-Đức?
- Dạ, Nguyễn Phiêu Linh, em
của em, bị động viên vào khóa 6/68. Thầy nhớ Linh không, thưa Thầy?
- Nhớ chứ sao không. Cái thằng
ốm ốm, “ông Già bà Già” bắt nó theo canh chừng bà hoài đó chứ gì.
- Dạ. Linh không còn nữa!
- Biết rồi. Chừng nào bà đi?
Cho biết ngày, tôi sẽ bay về Cali. đón bà.
- Dạ, cảm ơn Thầy nhưng gia
đình khóa 6/68 lo cho em rồi.
Toàn nghiêm giọng:
- Ngày xưa bà theo Hải-Quân, bà …
bỏ tôi. Bây giờ bà theo Bộ-Binh, bà bỏ tôi!
- Chết! Chết! Thầy ơi! Em
đâu có là gì của Thầy mà Thầy bảo em bỏ Thầy?
- Giận quá! Tức quá thì nói
rứa đó! Tội nghiệp cho Cô Lượng của tôi! Cô cứ bảo “Toàn gửi gạo vô cô nuôi Thanh-Điệp
cho”. Chao ôi! Cô nuôi cách chi mà sẩy mất
tiêu!
- Thôi, Thầy ơi! Đừng trách em nữa.
Thầy đàn và hát cho em nghe đi, Thầy.
- Yêu cầu tôi đàn hát thì
tôi đàn hát cho mà nghe; hứa là không báo cảnh sát bắt tôi, nghe chưa?
Tôi cười. Tiếng Piano tạo nên dòng Tango
rộn ràng, vui tươi. Tôi nhận ra Toàn đang đàn Tiếng Đàn Tôi của Phạm Duy. Dạo hết
phân đoạn đầu, Toàn bắt vào: “Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt…Vì cuộc
tình đã chết một đêm nao…Mênh mông lả lơi, lạnh lùng em đã rời tôi…Khoan, khoan
hò ơi! Lệ sầu rụng xuống đàn tôi!” Không hiểu Toàn vô tình hay cố ý khi
hát bài này, nhưng lời ca khiến tôi cảm thấy buồn buồn.
Toàn chuyển qua một tình khúc êm dịu: “Memories,
pressed between the pages of my mind. Memories, sweetened thru the ages just
like wine…”(1)
Theo dòng nhạc và tiếng hát ngọt ngào của
Toàn, hình ảnh của Linh chờn vờn trong tầm mắt tôi. Tôi nhớ những buổi sáng mờ
sương, Linh và tôi đi bộ từ đường Phan Đình Phùng băng qua vườn rau cải để đến
trường Domaine de Marie, trên đường Hai Bà Trưng, Dalat. Tôi không quên được những
“trận đụng độ” giữa các hội tuyển nổi tiếng, Ba tôi thường cho tôi và Linh đi
theo, vào sân vận động xem đá banh, để thấy Ba tôi phỏng vấn các cầu thủ danh
tiếng – nhất là thủ môn Rạng – để viết tường thuật cho báo Đuốc Thiêng. Nhờ vậy,
tôi biết chút ít về nghệ thuật và quy luật đá banh. Cũng nhờ vậy, vào những dịp
đội banh trường Võ Tánh đấu với đội banh trường khác, tôi thấy Linh có những cú
“sút” rất “thần kỳ”, chàng giữ “gôn” đỡ không nỗi! Một “vai trò” mà Linh rất ghét,
là – theo “lệnh” của Ba Má tôi – Linh phải giả vờ đi ra đi vô phòng khách thường
xuyên mỗi khi có chàng nào đến nhà thăm tôi để “nghe ngóng” xem chàng nào có lời
lẽ hoặc thái độ không đứng đắng đối với tôi thì mách cho Ba Má tôi. Có lẽ Linh
ít hợp với Toàn; vì lúc Toàn quen với tôi tại nhà thầy Lượng thì tôi chỉ mới học
đệ Lục hoặc đệ Ngũ và Linh học sau tôi cho nên biết Toàn là giáo sư, Linh ngại.
Linh gọi Toàn bằng Thầy; tôi cũng gọi Toàn bằng Thầy. Dạo đó, vì tôi còn là trẻ
con cho nên Cô của Toàn – vợ thầy Lượng dạy Pháp văn và cũng là Mẹ của bạn tôi
– cứ đùa: “Toàn gửi gạo vô cô nuôi Thanh-Điệp cho.” Linh và Minh
rất hợp vì cả hai đều thích đá banh và đều có cú “sút” “ngàn cân”. Linh nói với
Ba Má tôi nhận xét của Linh về sinh viên quân y Vĩnh: “Khi nào anh Vĩnh tới,
Ba Má khỏi cần bắt con ‘do thám’; vì anh Vĩnh chỉ ngồi nhìn chị Hai rồi cười chứ
anh Vĩnh có nói tiếng nào đâu!” Khi thụ huấn tại quân trường Thủ-Đức,
Linh và Trung trở thành đôi bạn thân.
Vừa nhớ đến đây, tôi chợt nhận ra Toàn
đã hát trở lại phân đoạn đầu. Đến phân đoạn thứ hai, lời ca làm tôi xúc động,
bùi ngùi: “…Quiet thought come floating down and settle softly to the
ground like golden autumn leaves around my feet. I touched them and they burst
apart with sweet memories…”(2) Tiếng hát của Toàn vẫn thiết tha, trầm ấm
nhưng suối nguồn thương nhớ Linh và Trung cứ cuồn cuộn dâng cao trong lòng tôi.
Nhìn bầu trời trong xanh của một sáng
mùa Hạ, tôi tưởng như tôi thấy lại Linh và Trung – trong quân phục sinh viên sĩ
quan Trừ Bị Thủ-Đức – vào những cuối tuần xa xưa, khi Linh và Trung từ Quân Trường
Thủ-Đức về Saigon thăm tôi. Rồi, từ niềm nhớ thương chất ngất trong hồn, tôi tưởng
như tôi không còn nghe tiếng đàn và giọng hát của Toàn nữa nhưng tôi lại nghe
được tiếng Guitar của Trung trong ca khúc mà khi xưa Trung rất thích. Khi tiếng
Guitar của Trung đến đoạn gần cuối của ca khúc Mấy Dậm Sơn Khê tôi vừa “ngân
nga” nho nhỏ: “… Em hỡi em! Đường xa vui đấu tranh giữa khung trời gió lộng,
nghìn sau tiếc nghìn xưa!” vừa cảm nhận hai hàng nước mắt âm ấm đang
lăn dài trên khuôn mặt hằn nhiều nếp nhăn của tôi!
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
1 và 2.- Elvis Presley's lyrics
No comments:
Post a Comment