Trinh Bách viết về cung đình
Huế
Một
bài viết rất hay và cảm động của anh Trịnh Bách về cô Lê Thị Dinh, nhân chứng
cuối cùng am tường về đời sống cung đình cuối triều Nguyễn, vừa từ giã cõi tạm
ngày 21/02/2021, hưởng thọ 101 tuổi.
CÔ
DINH
Bài
của TRỊNH BÁCH
Cô
Lê Thị Dinh sinh năm 1920. Cô là cháu ngoại Kiên Quận công Ưng Quyến. Kiên Quận
công là em trai của các vua Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi (tức là chú ruột
của vua Khải Định).
Khi vua Hàm Nghi xuất bôn, người Pháp muốn đưa
Kiên Quận công lên ngôi. Nhưng ông trốn theo vua Hàm Nghi. Hai năm sau khi vua
Hàm Nghi bị bắt, ông mới trở về, với đủ thứ bệnh tật sau bao gian truân ẩn lánh
trong rừng núi lam chướng.
Theo Cô Dinh thì công việc của những người như
Cô trong nội cung gọi là hầu cận. Các bà hầu cận nội cung này là những người được
phép đụng chạm trực tiếp đến thân thể của các thái hậu, quý phi. Như để tắm rửa,
mặc áo quần, chải đầu vấn khăn, làm tốt (trang điểm),v.v. Họ phải là những người
có vai vế cao như công chúa, quận chúa, thân cận trong hoàng tộc. Họ khác với
các nữ quan hay thị nữ làm các tạp vụ, tạp dịch trong nội cung là người ngoài,
thường phải giữ khoảng cách.
Đối
với các bà hầu cận đương nhiệm trong nội cung thì dù có là công chúa, quận
chúa, người ta cũng gọi là Cô (viết hoa, nói gọn đi từ ‘lệnh Cô’). Gọi bằng Cô
đây cũng để phân biệt với cấp bậc của các bà vợ vua trong tam cung, lục viện.
Các bà phi, tần, mỹ nhân trong nội cung này cao thấp có các bậc là Bà (lệnh
Bà), Dì (lệnh Di) và Chị (lệnh Tỷ). Các nữ quan trong nội cung như các bà thống
sự, tùng sự, thì gọi là các Má (như Má Thống, Má Tùng).
Nhưng ở ngoài thật người ta không gọi các bà nội
cung là lệnh Bà, lệnh Di, lệnh Tỷ mà gọi là đức Bà, đức Dì, đức Chị. Riêng các
vua Nguyễn gọi mẹ mình là Ả (đức Ả). Lần vua Bảo Đại gặp vua Thành Thái khi vua
Thành Thái trở về từ Phi Châu năm 1954 (cả hai lúc đó đều không còn là hoàng đế),
vua Bảo Đại gọi vua Thành Thái là đức Bác và xưng mình là cháu hay có lúc là tiểu
tử… Không biết vua Thành Thái lúc đó gọi vua Bảo Đại là gì. Nhưng trong một bức
thư do cựu Hoàng Thành Thái đang bị lưu đày viết cho vua Bảo Đại khi còn tại vị,
cựu Hoàng gọi nhà vua là Kim Thượng. Dù sao đấy cũng chỉ là cách xưng hô trong
thư từ, văn bản.
Cũng nên lan man sơ lược thêm một chút về các
cách xưng tụng trong nội cung, triều đình. Những ‘Trẫm’, ‘khanh’, bệ hạ, điện hạ,
v.v., chỉ dùng trong giấy tờ, khi làm lễ, hay trên sân khấu. Thường các quan
tâu với nhà vua là ‘tâu Hoàng thượng’. Các thị vệ gần gũi và các người trong nội
cung thì ‘tâu Hoàng đế’. Vua Bảo Đại xưng với mọi người là ta, nhưng với người
thân là ‘quả’. Khi nói chuyện trực tiếp, Vua và các hoàng thái hậu gọi các đại
quan là ‘thầy’, với chức vị của họ. Ví dụ như họ gọi thượng thư bộ Lại là ‘Thầy
Lại’. Hay thượng thư bộ Hộ là ‘Thầy Hộ’.
Với
các hoàng thái hậu đã được sách phong, tức là được ở ngôi vị bệ hạ, thì người
ta phải tâu. Và gần như trong mọi trường hợp khi trao đổi với Thái hậu thì người
ta nói ‘tâu Ngài’. Khi nói chuyện về Hoàng hậu Nam Phương, người ta gọi
bà là ‘ngài Hoàng’. Hoàng hậu không ở ngôi vạn tuế, mà chỉ là đại thiên tuế
(mão có 7 phụng), giống như hoàng thái tử (mão có 7 rồng), cho nên người ta
không tâu lên hoàng hậu, mà chỉ ‘bẩm’. Người ta sẽ hoặc là ‘bẩm Hoàng hậu’, hay
‘bẩm Ngài’. Không bao giờ có việc xưng tụng hoàng hậu, quý phi là nương nương
hay lệnh bà, ít nhất là ở thời cuối Nguyễn triều.
Hoàng hậu Nam Phương tự xưng mình là ‘tôi’.
Trong bài viết về một buổi phỏng vấn Hoàng hậu Nam Phương đăng trong báo Tràng
An ở Huế ngày 1/6/1937, Hoàng hậu nói cảm thấy “lỡ ngỡ” nhất là khi thấy người
ta gọi mình là ‘đức Bà’. Và trong câu chuyện, Hoàng hậu gọi Hoàng tử sơ sinh Bảo
Long là “nó”hay “thằng nhỏ”…
Có người làm việc hầu cận toàn phần như Cô
Dinh, Cô Sen (em gái Cô Dinh). Có người làm việc bán phần thỉnh thoảng vào hầu
cận các thái hậu một lần khoảng một, hai tuần, như Mệ Bông (tức bà Ngoại công nữ
Nguyễn Thị Cẩm Hà, con gái Mỹ Lương Công chúa); hay Mệ Sen (bà Hoàng nữ Lương
Linh, con vua Thành Thái)...
Cô Dinh lúc đầu vào hầu cận bà Thánh Cung
Hoàng Thái hậu (mẹ đích vua khải Định), rồi sau làm Hầu cận Tổng Quản cho bà
Đoan Huy Thái hậu (tức bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại). Mọi chuyện từ thư từ, tiếp
khách, cho đến trang điểm, chọn lựa quần áo, v.v., của đức Từ đều do Cô xếp đặt.
Ví dụ như các thư của đức Từ Cung gởi cho vua Bảo Đại đều do Cô chấp bút. Hay hồi
tổng tuyển cử năm 1967, hai phu nhân của các ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao
Kỳ có thay phiên vào gặp đức Từ. Mọi chuyện đều do Cô Dinh sắp xếp. Cô kể cả
hai đều gọi đức Từ là Ngài. Bà Kỳ xưng con và bà Thiệu xưng cháu. “Đức Từ tiếp
hai bà rất thân mật, dù ngài thường không thích người ngoài xưng con cháu với
mình”, Cô kể…
Giây phút đức Từ Cung trút hơi thở cuối cùng hồi
đầu tháng 10 năm 1980, chỉ có mình Cô Dinh ở cạnh. Và Cô có triệu hai người bà
con là các chị Hiền, Diệu đến giúp việc tẩn liệm. Sau đó Cô dọn về phủ thờ Kiên
Thái Vương để ở đó phụ với người em gái trông nom phủ.
Cô Sen, người em gái Cô Dinh, tên thật là Lê
Thị Bích Cẩn. Cô Sen cũng là hầu cận của các thái hậu, từ thời bà Thánh Cung.
Trong đợt biến cố 1947, Phủ thờ Kiên Thái Vương, với các ban thờ Kiên Thái
Vương và các hoàng đế con cháu của ngài là Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh và
Khải Định (bài vị của vua Bảo Đại trong phủ mới được lập năm 2003), bị thiêu hủy.
Đến năm 1951 khi phủ thờ được xây dựng lại, Thái hậu Đoan Huy cử Cô Sen về
trông coi. Cô Sen mất tại phủ này năm 2008. Cô chưa bao giờ lập gia đình.
Tôi được biết các Cô, mà thân mật tôi gọi là
các dì, từ những năm đầu của thập niên 1970, khi tôi sống ở Huế trước khi xuất
ngoại. Có lần tôi được bà Tân Điềm, tức bà Tam giai Diễm Tần, vợ thứ của vua Khải
Định, cho theo vào biệt thự Phan Đình Phùng của đức Từ Cung. Có khi tôi cùng cậu
em họ mang gạo đỏ của Sư bà Diệu Không gởi lên tiến Ngài. Sư Bà rất nhiệt huyết
với thuyết dưỡng sinh của Oshawa. Những lần như thế chúng tôi gọi là “lên
Ngài”. Các Cô hay mang bánh trái của Ngài ban, trao cho chúng tôi. Cậu em họ lí
lắc đã khiến các Cô phải đánh bài xếp (xếp bài cho đúng mà tới, phát âm theo lối
Huế thành bài xệp) với chúng tôi, dù các Cô không thích món này lắm. Nhưng
chính vì câu chuyện bài xếp này mà hơn hai chục năm sau chúng tôi nhận được lại
nhau.
Điều tôi thấy ấn tượng nhất cho đến tận bây giờ
là những khuôn mặt đầy phấn nụ của các Cô. Mốc mốc trắng như cách các bà phủ,
huyện ngoài Bắc đánh phấn bột ngày xưa. Cũng với những đóa môi tươi son. Sao mà
xưa cổ thế, như từ thời nào, thuở nào còn vương về.
Các Cô luôn chỉ dùng phấn nụ do họ tự làm. Sau
này tôi có tặng hai dì ít mỹ phẩm của Ester Lauder, Channel, nhưng các dì không
dùng. Rồi dì Dinh chỉ cho tôi cách làm phấn nụ và sáp môi trong cung. Và một
hôm hai dì cháu lên truyền hình dậy cách làm phấn nụ. Các dì còn dậy làm nhiều
thứ. Từ cách vấn khăn vành dây, cách xếp rau thơm, salad, dưa leo, trái vả, đu
đủ thành tháp nhiều tầng trong cung; cho đến thế nào là cỗ kiều, thế nào là cỗ
chạp trong nội cung. Và bao nhiêu thứ nữa...
Hồi
đó tôi hay ở lâu trong Huế để làm các việc phục tạo, có khi cả 2 tháng. Có lần
các dì nói "Bách mấy bữa ni mần việc nhiều ngó ốm rồi đó. Để hai dì nấu ăn
tẩm bổ cho nghe". Và đồ ăn bánh trái các dì nấu thì ngon hết cách nói. Nhớ
nhất là món bún dấm nuốc của dì Sen và các thứ bánh khảo, phục linh, quai vạc,
v.v. của dì Dinh. Các dì vẫn còn giữ lại được các khuôn bánh, và các giấy gói
bánh có tráng kim thật đẹp trong cung ngày xưa.
Ngày vui bao giờ cũng qua mau. Sau một lần bị
ngã năm 2017, sự đi lại, hoạt động của Cô Dinh dần khó đi. Sau hơn một năm liệt
giường, Cô Dinh đã tạ thế lúc 13 giờ 45 phút ngày 21/02/2021 tại phủ thờ Kiên
Thái Vương. Cô thọ 101 tuổi. Tang lễ được cử hành sáng ngày Chủ Nhật 28/02/2021
tới đây. Giờ thì tất cả mọi sự liên quan đến Nguyễn triều lúc còn vua đều coi
như không còn...
Trinh Bách
No comments:
Post a Comment