PLEIKU, THƠ VÀ THI
NHÂN
Nguyễn Mạnh Trinh
(10/01/1949 - 24/08/2021)
Có lẽ không có một thành phố nào như
Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt Nam. Những thi văn
sĩ, đã sống và thở ở không gian đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến
tranh, nên tác phẩm của họ đã biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người
lính thú hay những nàng chinh phụ của một thời đại chiến tranh.
Với tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho tôi
rất nhiều vần thơ. Có thể là của riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi
sĩ đã gần gũi với thành phố ấy. Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một kho tàng kỷ
niệm của riêng tôi..
Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã cảm
thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quanh.
Năm tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến cái
tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng.
Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy
không vừa lòng. Tuổi trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha
Trang phong cảnh sơn thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang
thang. Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy
và khi lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc hàng khai sơn
phá thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây…
Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ
hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm xấy đồ hộp ngày này qua
tháng khác mà vẫn vui. Lãnh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối
nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao
nhiêu đứa bạn, buổi sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau
thân xác đã thành sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù sương,
thấy đời mỏi mệt như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu dốc. Dù rằng
lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…
Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến Pleiku
thật là lạ lùng.
Ngày đầu tiên khi tôi từ Nha Trang xuống
phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh
Dương bị bắn và tôi hiểu chiến tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú
đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu
mây đen. Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi
trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ
trong óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên thành một phần
của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những
giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực. Nặng tê… Tự
nhiên tôi thấy mình thật gần gũi thân thiết với những vần thơ biết là bao
nhiêu. Có lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình…
Thi sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông đảo.
Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có phong thái riêng. Tôi bắt
đầu với nhà thơ Vũ Hữu Định…
Nếu nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để
Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng
mạn và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chẳng phải là ngoa ngôn, những câu
thơ dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng
của “Em,” của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những
nhân dáng này có thật trong đời sống của người làm thơ không thì nhà thơ họ Vũ
đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh trong thực tế để
tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của hư cấu. Và trong
cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi, con người thi sĩ và cảnh vật cũng như
thiên nhiên ở đây hình như thở chung một nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc.
Con phố hoang sơ lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm
thông được, hiểu được từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ.
Bài thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ thôi
mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ
làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để quên đi những ám ảnh của chiến tranh:
“Phố núi cao phố núi đầy
sương
phố núi cây xanh trời thấp
thật gần
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ
thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình
thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nao lòng bỗng
bâng khuâng
em Pkeiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm
mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều
trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để
quên.”
Hình như về sau này, khi Cộng Sản chiếm
miền Nam, thì trong các tuyển tập thơ có trích đăng bài này. Bài thơ này hình
như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một tài sãn văn hóa của
dân tộc…
Bài thơ này được trích đăng hoặc in
trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không phải là nguyên văn
bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai xa lắc trên đồn
biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai xa lắc trên đồi
biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ mà ý tưởng đã
khác nhau nhiều!
Tôi không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ
này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng
quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau:
Với chiều cao khoảng một thước sáu nhưng
có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối ăn vận lè phè nhà thơ Vũ Hữu
Định trông gần như hơi thấp. Anh không có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt
mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm bộc trực đã thắp sáng
khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời vào thập niên 40
này. Năm 1970, năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và phố chợ Quảng
Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định. Lúc đó hình như
anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của anh lòng vòng
ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sôn Trà,... Anh
chợt đi, chợt về. Đặc biệt anh lúc nào cũng có vẻ thong dong giàu có thời giờ
phất phơ phố xá. Anh làm thơ nhiều trong giai đoạn này. Thơ của anh hầu hết được
đăng trên các tạp chí văn chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật
chất không mấy khả quan, quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận
cho tôi đến nhà chơi. Cũng không hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vợ
có con nhưng mãi về sau này tôi mới tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật
buồn!
Ông mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều
dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và
vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và chết.
Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố tình
từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa ngờ và
cũng hiểu rằng ở thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay vì say mà té
ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau xót cho gia đình, bạn
bè và những người yêu thơ ông…
Thi sĩ viết về Pleiku như thế thì rất
nhiều nhưng tôi cũng muốn nói về một thi sĩ mà tôi rất mê thơ của ông. Đó
là Nguyễn Bắc Sơn…
Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc
chiến, làm thơ như một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời
người. Sống ở Pleiku và viết những bài thơ để gửi Pleiku. Thơ ông, có chút cảm
khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm
tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng
sĩ…
Đọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh Pleiku,”
tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày tuổi
trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh,
chưa hẳn là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của mùa
hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban
đêm trên đỉnh cao nhìn về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nhìn
vời vợi…
“Đứng trên núi thấy hàng đèn
thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy
nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm
căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp
cũ
Nên phải nhớ mắt một người
thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm một ngày
xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp
ngày mưa
nhưng vĩnh cửu chút mơ màng
thuở đó…”
Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi
chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy
chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng
lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng:
“Phố núi kia ơi, một đời phố
lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác
đèo cao.”
Hoa quì vàng? Một loài hoa có lẽ chỉ có ở
Pleiku. Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đã
nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng, mênh mang
trên những ngọn đồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa quì, lẻ loi
một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh
phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm
xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà
có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều
nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn,…?
Người thơ kể chuyện của mình, một câu
chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên, cũng
loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống,..
“Đời lang bạt của một người
lính thú
Sáng hôm qua tôi là người
thiếp ngủ
Đi một mình lên xuống phố mù
sương
Phố núi kia ơi, phố có con
đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn
hữu
Không có bạn tôi làm sao uống
rượu
Tôi làm sao sống nổi một
ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì
gã lính…”
Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi
làm sao sống nổi một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất
thơ mà sao nghe tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên
cao độ, và, nỗi lạnh lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có
niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ lưu lạc ở đâu?
“… Tôi vận rủi làm một người
lãng đãng
ngó mông hoài khuất bóng của
người em
sáng hôm nay đời sống thật
bình yên
sao phố lại đuổi đi người yểu
điệu
vườn đá tảng bàn chân em huyền
diệu
in gót hồng lên lớp bụi đời
tôi
là từ khi tôi hạnh phúc rong
chơi
và quên lãng con thú mù phẫn
nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh cõi
bi hoang…”
Nguyễn Bắc Sơn làm thơ với tâm trạng u uất
của thời đại trong một cuộc chiến kéo dài suốt gần hai chục năm. Ông có người
cha là một cán bộ quân sự cao cấp của Cộng sản nên trong thời kỳ ông đi lính
VNCH cũng bị ảnh hưởng. Cơ quan An Ninh Quân Đội bắt ông thuyên chuyển đơn vị
và theo dõi. Sau đó ông đào ngũ và bị bắt lính lại và phục vụ tại một đơn vị địa
phương quân ở Phan Thiết. Sau năm 1975, người cha trở về và là một viên chức
cao cấp sau về hưu và bị chết một cách bất thường vì bị tai nạn giao thông. Có
dư luận cho là bị mưu sát…
Đời sống của ông đã tạo cho thơ ông niềm
đau xót của những người bị kẹt giữa hai giới tuyến. Thơ của ông hào sảng có nét
chân thực thô nhám của đời lính trận có những câu như:
”Mai ta đụng trận may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách
chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày
vui…”
Có người phê phán những bài thơ có chất
phản đối chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, nhưng họ phải công nhận ý thơ và tứ
thơ mạnh mẽ của ông, một kỹ thuật làm thơ với ngôn ngữ tuy bình dị gần gũi đời
thường nhưng đầy chất sáng tạo…
Có một nhà thơ nữ cũng nổi tiếng với một
bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc khúc “Tưởng như còn người
yêu.” Đó là nhà thơ Lê Thị Ý và bài thơ “Thương ca 1.”
Trả lời một câu phỏng vấn của Đinh Quang
Anh Thái, tác gỉa Lê Thị Ý phát biểu:
“Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại
Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt chỉ thấy lính,
vợ lính, xe tăng, xe jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở gần nhà
xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy
đàn bà con nít đến lật cái poncho quấn xác để nhìn rõ mặt người thân, cảnh đó
khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng nỗi đau của những người có chồng chết
trận là nỗi đau của chính mình. Thành thật tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống
bằng hình ảnh những người vợ lính, vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn đau
đó là nỗi đau của mình.”
Khi trả lời câu hỏi khi thơ phổ thành ca
khúc thì có người chê là phản chiến, nhà thơ Lê Thị Ý nói:
”Khi tôi làm bài thơ tôi xúc cảm thế nào
thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không nghĩ gì khác cả. Bài thơ được phổ
biến cũng là một sự ngẫu nhiên. Một người bạn của anh Vương Đức Lệ tôi đến nhà
chơi thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyện Đức Quỳnh người trụ trì sinh hoạt Đàm
Trường Viễn Kiến ở nhà cụ ỏ Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, nhà
văn, nhà báo – Cụ Quỳnh đọc thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ nhạc. Cho nên
bài thơ của tôi được mọi người thưởng thức hoặc cho là phản chiến thì cũng là
việc tình cờ thôi chứ tôi không chú ý trước việc phổ biến bài thơ…”
Bài thơ rất cảm động, nguyên văn là;
“Ngày mai đi nhận xác chồng
say đi để thấy mình không là
mình
say đi cho rõ người tình
cuồng si độ ấy hiển linh bây
giờ
cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu
son
tình ta không thể vuông tròn
say đi mà tưởng như còn người
yêu
phi cơ đáp xuống một chiều
khung mây bàng bạc mang nhiều
xót xa
dài hơi hát khúc thương ca
thân côi khép kín trong tà
áo đen
chao ơi thèm nụ hôn quen
đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ
nhau
chiếc quan tài phủ cờ màu
hằn lên ba vạch đỏ au phũ
phàng
em không thấy được xác chàng
ai thêm lon giữa hai hàng nến
chong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng
riêng ai”
Nếu hồi trước bản nhạc về phố núi của Phạm
Duy phổ nhạc từ thơ Vũ Hữu Định thì về sau này những người yêu thương Pleiku
cũng hay ngâm nga hoặc thích lắng nghe bản nhạc Phố Xưa của thi sĩ, nhạc sĩ
Hoàng Khai Nhan. Bản nhạc với ca từ như “Chiều mờ trên phố cao / Đón em về từ
khi có nhau / những con đường tình vui biết bao / kết hoa ngày nào / chiều vào
đêm rất mau / quán trong phi trường đèn đêm thắp sao...” đã thành một bài hát
đáng yêu của những người lính trấn ải miền ba biên giới.
No comments:
Post a Comment