NHỮNG ĐÓA HOA TÌNH
Đỗ Bình
Khung trời văn học
nghệ thuật là một cõi mênh mông vô tận, do đó người nghệ sĩ phải tự tìm cho
mình một phong cách riêng qua sáng tạo thể hiện tác phẩm mà vẫn giữ những
nét riêng không hòa lẫn vào bản sắc của người khác để đến chân Thiện
Mỹ. Tâm hồn nghệ sĩ đa cảm bắt nguồn từ trong cái thực ngoài đời hòa với
cái mộng của tâm cảnh hay ngược lại, đôi khi từ vô thức để hình thành tác phẩm.
Để có một tác phẩm giá trị ngoài những yếu tố chân thiện mỹ người nghệ sĩ phải
hòa theo số mệnh thăng trầm của dòng lịch sử đất nước, lấy tình yêu quê hương
và con người làm nguồn sáng tác, người nghệ sĩ không chỉ vui chơi với nghệ
thuật để thỏa mãn chính mình và số ít bằng hữu rồi quên chuyện thế nhân mà phải
đồng cảm với nỗi niềm của tha nhân, từ đó phác họa ra một chân trời mới riêng
mình nhằm cống hiến cho đời những giai điệu đẹp. Trước sự biến đổi
của ngoại cảnh tâm hồn con người đều bị tác động, nếu có khác chăng là tâm
hồn người nghệ sĩ dễ cảm xúc và nhạy bén hơn nên đã hòa nhập ngoại cảnh
với tâm cảnh khơi dậy những nỗi niền
bằng góc nhìn độc đáo để chia sẻ những thương cảm vui buồn của tha nhân dệt
thành những áng văn thơ giai điệu say đắm lòng người, đó là tác phẩm.
Thế giới ngày nay đã thay đổi, sự văn minh tiến bộ trên lãnh vực khoa học khiến
con người ngày càng thực nghiệm xa dần tính lãng mạn cõi riêng mộng mị để bước
vào thế giới chung đầy ảo của internet, do đó một số đông công chúng đã thờ ơ
với những tác phẩm văn học nghệ thuật. Trước cái hụt hẫng đó rất may còn có
những người nghệ sĩ chân chính vẫn tận tụy miệt mài đeo đuổi chân thiện mỹ cho
dù con đường văn nghệ càng đi càng gian nan và mù mịt!
Dòng thời gian vẫn
lặng lẽ trôi, chỉ có những tâm hồn nghệ sĩ mới có khả năng suy tưởng nhìn thấy
ảo giác để kéo ngược thời gian quay về quá khứ tìm lại những dấu vết của kỷ
niệm xưa.
Nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết một bài thơ để đời lần đầu
tiên in trên báoTinh Hoa năm 1936:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?!
(Ông Đồ)
Từ ngàn xưa những lời tỏ tình của trai gái gặp nhau
rất lãng mạn, họ đã để lại trong Thi ca Việt Nam nhiều giai thoại hay, sau đó
được các thi nhân ẩn danh minh họa ra những câu thơ tặng cho đời. Biết bao
những bài thơ tình tuyệt vời còn lưu truyền trong văn học mãi đến nay:
“Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà.”
(Ca Dao)
Thơ là thông điệp của tình yêu, là kho tàng cất giũ lời hẹn ước trăm năm của
hai kẻ yêu nhau chứa đày hương thơm mật ngọt lẫn trái đắng của những cuộc tình.
Thi sĩ Xuân Diệu một trong những người mở đầu cho trường phái lãng mạn trong
thi ca Việt nam đầu thế kỷ trước. Có thể nói Xuân Diệu là thi sĩ tiêu biểu cho
Thơ Tình lãng mạn thời kỳ ấy, nhà thơ đã cảm nhận tình yêu qua câu thơ tuyệt
vời:
«Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu .
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu ;
Người ta phụ , hoặc thờ ơ, chẳng biết ...
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt .
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
-- Yêu, là chết ở trong lòng một ít … »
(Yêu 1935 )
Thời kỳ thi ca bước vào trào lưu lãng mạn, nhất là từ ngày truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu đăng
trên Tiểu thuyết thứ Bảy của Vũ Đình Long năm 1937. Và tiếp theo là bài thơ thứ
nhất: Hai Sắc Hoa Tigôn của T.T.K.H đã gây xôn xao dư luận và tạo nên một nghi
vấn văn học ai là tác giả bài thơ đó kéo dài mãi hôm nay!
“Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
Bài thơ như một tiếng vọng của con tim thét lên làm xôn xao dư luận trong một xã hội mà nền luân lý xa xưa còn khép
kín. Thân phận người phụ nữ Phương Đông bị những quy định ràng buộc xuất phát từ
các quan niệm của Nho giáo không cho phép người phụ nữ có lối sống hay suy nghĩ
buông thả, nhất là đối với phụ nữ đã có
chồng phải chính chuyên không thể tơ tưởng đến người đàn ông khác dù đó chỉ là
ý nghĩ biểu cảm sự ái mộ về đức tính cao thượng, hào hiệp thì cái «thích» đó
cũng bị kết tột là ngoại tình! Người phụ nữ xưa luôn bị đứng sau dù ở mọi hoàn
cảnh, phải theo :«tam tòng, tứ đức». Tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử:
Khi còn ở nhà thì phải nghe theo cha anh,
lấy chồng nghe theo chồng, chồng mất thì nghe theo con. Tức Đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh: Công việc phải khéo léo, dung mạo phải hòa nhã gọn gàng, lời nói phải dịu
dàng mềm mỏng, tính nết hiền thảo nết na.
Nhà thơ T.T.K.H dùng bút hiệu mà dấu tên mình vì áp lực của luân lý cổ điển. Xét về mặt tình cảm của con người thì trái
tim có lý lẽ riêng không thể lấy luân
lý mà phán xét được. Nhà thơ đã không dám chối từ cuộc hôn nhân để đến với tình
yêu cho trọn vẹn mà chỉ thổ lộ tình cảm của mình lên trang giấy. Dù trân qúy sự
chân thật của con tim không dối lòng nhưng nằm bên chồng mà nhớ người yêu là
ngoại tình! Phải chăng nhà thơ gởi bài thơ đăng báo là muốn thách thức dư luận
hay thi nhân muốn tố cáo trong cái luân
lý ấy cũng có bề trái, lắm kẻ đạo đức giả khi cho phép «trai năm thê bảy
thiếp » ?! Lân lý thường thay đổi theo từng thời kỳ, từng xã hội, sắc
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày nay cái nhìn về tình yêu cởi mở hơn nhưng trong
tình nghĩa vợ chồng người ta vẫn không chấp nhận được người ngẫu phối nghĩ đến
người khác vì «tính ghen».
Bài thơ tuyệt vời, mang tính độc đáo vì dám nói lên bề trái của tình yêu luân
lývợ chồng mà muôn vàn bài thơ về sau vẫn chưa có bài trùng ý: Thơ tình chứa đầy chất lãng mạn, là lời ru
tiếng nấc của con tim như dòng suối mát hương thơm nâng niu tình yêu nên đôi
khi ý thơ vượt trước thời đại, chối bỏ những rang buộc luân lý xã hội đương
thời còn khép kín. Con người từ khi xuất hiện thì tính lãng mạn cũng phát sinh.
Nhà thơ đã thả hồn mình theo trăng sao để gởi về nơi xa xăm ấy một chút tình.
Chỉ có nhà thơ mới dám bộc lộ lòng mình, thi sĩ TTKH để lại bài thơ tình còn
lưu trong văn học mà một thời đã gây xôn xao đầy bao giấy mực:
Hai sắc hoa tigôn
«Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy"
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?»
(T.T.K.H 23.11.1937)
Vào cõi thơ là lạc cõi
bồng bềnh vô tận, nơi ẩn chứa những tâm hồn đa sầu đa cảm của thi nhân về những mối tình thiêng liêng
sâu kín nhất. Nhà thơ đi giữa cõi mộng và thực hòa lẫn mộng thực cho đời thêm
sắc màu. Thơ là bạn đồng hành của những tâm hồn đau khổ, thơ sẽ làm vơi đi nỗi
buồn, vỗ về những niềm đau, thi vị hóa những cuộc tình dang dở biến thành một
“thú đau thương” tặng cho đời. Nói đến thơ tình thời kỳ lãng mạn ở thế kỷ trước
không thể quên người thi sĩ tài hoa tự nhận mình là “ chân quê ” đó là thi sĩ
Nguyễn Bính. Có lẽ ngôn ngữ thơ ông bị ảnh hưởng nhiều từ ca dao nên mới tự
nhận mình là chân quê. Nhưng “ chân quê ”ở đây là “ chất Việt Nam”, cái hiền
hòa “trong sáng”chứa trong tâm hồn người dân quê bình dị. Bút pháp tài tình, sử
dụng điêu luyện ngôn ngữ chân phương, có thể xem thi sĩ Nguyễn Bính là một
trong những những nhà thơ có nhiều bài thơ tình hay và độc đáo ở thời kỳ đó.
Thơ tình lục bát một thể thơ độc đáo của Việt Nam dễ bắt chước về hình thức
nhưng khi thực hành lại khó tạo cho bài thơ trở nên hay! Thông thường những vần
thơ lục bát dễ trùng nhau về thanh, cách gieo vần điệu, nhưng lại khó ngắt câu
kép tạo nhịp. Rất khó dùng đảo ngữ, ngắt nhịp để hình ảnh câu thơ không rơi vào
lối sáo mòn vì lập lại những ý thơ đã cũ, xếp nếp khiến ngôn ngữ lại càng nhạt
nhẽo! Thi sĩ Nguyễn Bính đã tạo cho mình một cõi riêng nên dòng thơ lục bát trữ
tình của ông đã vào văn học sử, thuộc về dân gian:
«Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau.
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”
(Không Đề)
Thi nhân nặng nợ với tình thơ nào khác chi kiếp tằm nhả tơ. Hồn thơ tựa làn khói,
mùi hương ; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ cảm nhận chứ không thấy được hình
tướng. Nhưng ngay cả lúc hữu hình hồn thơ hóa thể thành sợi khói vầng mây chúng
ta đều nhìn thấy nhưng nào ai nắm bắt được? Chỉ có con tim thi nhân mới biết
hóa thể theo sự rung cảm nhập vào ngoại cảnh thành những bông hoa đời.
Trong tiến trình của dòng lịch sử thi ca kể từ thời thơ cổ đại đến dòng thơ tạo
sinh hôm nay về hình thức cấu trúc của thơ có nhiều thay đổi, nhưng hồn thi
nhân vẫn thế, vẫn là một cõi riêng như giọt sương mai mong manh dưới nắng hồng,
vẫn long lanh tỏa ra muôn sắc, dù chỉ một thoáng sẽ tan vỡ nhưng sẽ mang theo
màu diễm ảo về một cõi vô cùng. Nhập vào cõi thơ là sống trong cõi phiêu bồng.
Có những hình ảnh chỉ thoáng trong giấc mộng hay trong tâm tưởng rất đẹp như
những bài thơ không lời nên không thể chép được nhưng vẫn làm say đắm lòng,
nhất là những ai có tâm hồn đa cảm. Từ ngàn xưa gió trăng vẫn thế, không mang
cảm tính nhưng kể từ khi có nhà thơ xuất hiện đã mang tâm cảnh hòa với ngoại
cảnh để gió trăng kề cận giao duyên với nhau. Gió tuy gần nhưng lại vô hình
bóng, thế mà gió cũng biết lả lơi đùa trên làn tóc rối..Trăng tuy xa vời vợi
nhưng trăng bỗng hóa gần để ngậm ngùi, chia sẻ những đau thương của những mảnh
đời vỡ vụn. Thi sĩ Hàn Mạc Tử, người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại mắc một chứng
bệnh nan y, nhà thơ thích ngắm trăng đùa với gió, nhưng mỗi độ trăng tròn là
cảm thấy đau đớn. Cái đau ở đây không phải là đau thể xác mà đau ở tâm hồn, vì
chứng bệnh nan y đó đã làm tê liệt các tế bào của ông không còn cảm giác. Nhưng
nỗi đau trong tâm hồn là một khối sầu vẫn chất ngất làm sao thi sĩ có thể
quên?! Là thi sĩ nên Hàn Mạc Tử đã hòa với gió trăng để vợi niềm đau, những cảm
xúc ấy đã họa cho đời một bức tranh qua câu thơ tuyệt vời:
“Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gío đông về để lả lơi.
Hoa lá ngây rình không muốn đọng,
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi.”
( Bẽn Lẽn)
Hoặc :
«Trăng, trăng,
trăng, là trăng, trăng , trăng ! |
Thơ
tình “lứa đôi” là những trái mộng đầu đời ai cũng có thể hái dệt thành thơ.
Người làm thơ đã chắt chiu kỷ niệm gom nhặt cảm xúc rồi trang trải lên trang
giấy học trò thành nhiều bài thơ tình có bài hay có bài dở. Những bài thơ tình
thơ mộng đó dễ bị quên lãng hoặc người đời không hề biết đến vì nó thiếu tính
độc đáo, bài thơ nào cũng na ná giống nhau! Để thành một bài thơ tình xuất sắc,
độc đáo được cả nội dung lẫn hình thức rất khó! Ở tuổi mới lớn tình yêu vừa chớm tâm hồn còn trong sáng đầy mơ mộng và tình yêu như nụ
hương ngây ngất khiến hồn bồng bềnh say đắm dễ cảm xúc nên có thể làm một bài thơ tình hoặc nhiều bài thơ nặng chất học trò nhưng lại khó hay
vì lời và ý còn mộc mạc! Người làm thơ không có ý trở thành thi sĩ nên chưa chú ý về nghệ thuật cấu trúc thơ để có thể diễn đạt được những cái hay
cái đẹp của thi ca bằng ngôn ngữ chắt lọc thành bài thơ tình muôn thuở. Nếu cái nguyên sơ mộc mạc của lời tỏ tình diễn tả được ý nghĩa sâu
sắc, chất độc đáo của cuộc tình thì bài thơ sẽ là cõi riêng, thơ sẽ chắp cánh
và đi vào lòng người tồn tại lâu dài với thời gian. Ở tuổi về chiều làm một bài
thơ tình rất khó vì con tim đã cằn cội lại chứa đầy những biến động thăng trầm
nên hồn thơ bị trầy trụa, cảm xúc dễ bị sơ cứng do đó hụt hẫng trước cuộc đời
nên lời thơ kém óng ả mượt mà, nhất là không dám thổ lộ tiếng nói thật của con
tim cho dù kỹ thuật làm thơ rất điêu luyện! Trong vườn thơ hải ngoại đa số các
thi sĩ đã qua thời thanh xuân cháy bỏng làm những bài thơ tình dù nỗi đam mê
sáng tác và nguồn cảm hứng thơ vẫn còn nhưng đa số là thơ hoài niệm về quê
hương. Đây là nguồn cảm hứng vô tận trong tâm thức của người tha hương vì khi
ra đi họ đều mang theo một quê hương trong trái tim. Thủơ xa xưa ở quê nhà vào
đầu thập niên 60 của thế kỷ trước trên làng thi văn xuất hiện những bài thơ
tình độc đáo của Anh Hoa nhưng những vần thơ ngọt lịm đó chẳng bao lâu bị chìm
khuất bởi khói lửa chiến chinh, nhà thơ bị cuốn hút vào vòng lửa đạn, tiếng thơ
bị át bởi tiếng vọng quê hương. Thế sự thăng trầm nhà thơ giã từ chiến trường để
đi vào chốn lao tù trại tập trung. Hơn mười mấy năm khổ ải trong ngục tù nhà
thơ Anh Hoa đã vui với vần thơ, đã dựa vào thơ mà sống. Ra được hải ngoại Anh
Hoa đã cảm ơn vần thơ và cảm thấy chung quanh đời vẫn đẹp, còn nhều sắc màu như
muôn hoa nên nhà thơ đã đổi bút hiệu
thành Hoa Văn để làm những bài thơ tặng người, tặng đời. Nay tuổi đã xế chiều
nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho ra nhiều tập thơ mà trong đó có hàng trăm bài
thơ tình sướt mướt thi sĩ đã viết cho người mình yêu dù đó chỉ là mối tình đơn
phương! Tình yêu đã giúp cho hồn thi nhân thăng hoa nên nguồn cảm xúc của Hoa
Văn vẫn mãnh liệt, vẫn nhạy bén trước ngoại cảnh bằng một sự rung động thật. Phải
chăng nó là hoa thơm cỏ lạ bắt nguồn
từ hình bóng người mà nhà thơ yêu qúy rồi biến đối tượng thành một một nàng thơ
để thi sĩ thả hồn và dệt mộng. Trong những thi tập của Hoa Văn, cái thực trong
đời và cái mộng trong ảo giác đã hòa nhau chắp cánh nên có rất nhiều hình ảnh
bóng hồng từ người thật cũng như ảo lướt qua trong tâm hồn thi nhân để kết
thành nàng thơ. Màu sắc, không gian trong thơ Hoa Văn đôi khi là những hình ảnh
tưởng tượng không nhất thiết phải có thực ngoài đời và nàng thơ trong của thi
sĩ cũng thế, được thăng hoa hóa thể nhập vào thơ làm rung cảm người đọc như lời
tình tự của thi sĩ đang viết cho mình. Nhà thơ yêu thơ của mình hơn những thực
thể ở ngoại cảnh nên đã tô vẽ màu sắc cho lời thơ óng ả, sướt mướt làm đẹp con
chữ, ý thơ. Tình yêu lứa đôi là chất liệu nhạy bén làm rực cháy tâm hồn, phải sống
với hơi thở của tình yêu mới cảm được lời thì thầm của con tim thì mới viết được
bài thơ Tình độc đáo để đời, nếu không chỉ là những bài vần điệu đã có từ hàng
ngàn năm trước xếp nếp vì quá cũ mà ai cũng có thời dệt sợi tơ tình làm thơ.
Nàng thơ đóa hoa nghệ thuật, là người thật đã được nhà thơ chọn làm đối tượng
cho tác phẩm 300 bài Những áng thơ tình tuyệt diệu dù chỉ một bài vào trang
sách cũng đủ cho đời thưởng lãm vì tình yêu thì muôn đời không phai:
«Tình em mãi mãi mền như lụa
Mãi mãi lung linh chẳng tận cùng
Bát ngát hương hoa ngào ngạt tỏa
Bên đời chỉ thấy những thương mong. »
( trích: Hương Tình Hoài Điệp)
Viết Cho Nhau
Em ơi quá khứ nhủ thầm
Tạ từ mười ngón tay câm nín buồn
Đêm về ngõ mắt cô đơn
Lệch đôi dép cũ nghe mòn thời gian
Năm dư tháng đủ ngày tàn
Buồn xê dịch thuở đời man dại rồi
Mùa đi mắt đỏ chân trời
Mùa về môi ngọt tiếng cười hồi sinh.
( Thơ thập niên 60)
Thi ca sở dĩ được ca ngợi vì nó đã đóng góp phần trong kho tàng văn
hóa dân tộc, do đó những bài thơ có ý thơ sâu sắc, lời thơ mượt mà chọn lọc đều
được người đời nhớ lâu. Nhưng có người quá ham thích số lượng cốt sáng tác để
«có nhiều thơ» nên đã cắt xén những ca từ của những nhạc phẩm hoặc cóp nhặt những mẫu chuyện
tình trong các tiểu thuyết Âu Á, hay của những bài thơ khác rồi cắt dán, vá víu
gọi là sáng tạo, nhưng trong số những nhà thơ có người thực sự luôn tìm kiếm
những mới lạ và đã cho đời những bài thơ hay, độc đáo. Trong muôn vàn bài thơ
tình làm từ thuở học trò cũng chỉ có một số ít bài hay đã đến với giới thưởng
ngoạn, và số ít người làm thơ đó chính là thi sĩ với những bài thơ tình
mang tính độc đáo. Để diễn tả thơ tình người làm thơ thường dùng nhiều thể thơ
khác nhau, nhưng với lục bát hay ngũ ngôn dễ kể lể hơn. Loại thơ ngũ ngôn tứ
tuyệt rất khó diễn đạt vì quá ít chữ và câu lại ngắn nên nhà thơ thường
dùng thể thơ 5 chữ nhiều đoạn để diễn tả. Thể thơ này dễ làm nhưng lại khó diễn
tả hay vì điệp ngữ, trùng ý! Do đó nhà thơ phải chọn chữ lồng ý để mạch
thơ được liên tục không lập lại những ý, câu chữ ở những đoạn trên. Một
bài thơ được làm ra từ hứng cảm nhiều khi nhà thơ không mấy chú trọng hoặc cố ý
mang những chất liệu âm nhạc hội họa tư tưởng vào thơ, nhưng trong thơ vẫn có,
vì những môn nghệ thuật ấy đã được nhà thơ học hỏi, hoặc cảm nhận từ lâu. Nó đã
in sâu vào tiềm thức của nhà thơ, và khi làm thơ dù không cố tình nó vẫn
tuôn ra theo mạch cảm hứng của thơ. Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp viết bài Chùa
Hương năm 1934 là bài thơ tình xuất sắc. Nhà thơ diễn tả tâm trạng người thiếu
nữ ở tuổi chớm dậy thì của đầu thế kỷ 20 trước, thời đó xã hội còn nặng chất
phong kiến, trai gái chưa dám đối diện tỏ tình, thế mà cô bé mười lăm đã dám
thỏ thẻ tiếng lòng khi gặp tiếng sét ái tình. Bài thơ được lồng trong phong
cảnh đẹp nửa tiên nửa trần thật tuyệt vời. Hai câu chót của bài thơ diễn tả cái
tâm đích thực của tình yêu qua lời nguyện cầu. Nàng chẳng cầu xin khỏe mạnh, giàu
có tiền tài hay học hành tấn tới, mà chỉ xin: «Sao cho em lấy được
chàng». Bài thơ này về sau đã được bao nhạc sĩ phổ thành nhạc còn truyền tụng
mãi đến hôm nay. Vì bài thơ dài, xin minh họa vài nét :
"Hôm nay đi chùa Hương.
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy.
Em vấn đầu soi gương….
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm…
Nhưng em chưa lấy ai,
Rằng em còn bé lắm,
Ý đợi người tài trai…
Phơn phớt áng mây hồng.
Giòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ!
Thầy khen hay, hay quá!
Em nghe ngồi ngẩn ngơ.…
Em đi, chàng theo sau,
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu…..
Ôi! Chùa trong đây rồi!
Động thẳm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi…
Thầy kêu mau lên nhé,
Chiều hôm nay ta về.
Em nghe bỗng rụng rời!
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoáng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây.
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở!
Chàng ôi, chàng có hay?...
Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng."
(Chùa Hương)
Thời
xưa trong dân gian lưu truyền một bài thơ: «Khóc Bằng Phi » rất trữ tình
trong giới hoàng tộc, mà tác giả là Vua Tự Đức(1848-1883). Ngài có người thứ
phi tên là Thị Bằng qua đời nên tiếc thương đã làm một bài thơ thể Đường luật,
trong câu luận(5,6):
«Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi…»
Nguyễn Tất Nhiên là
một trong số người làm thơ ngũ ngôn nổi tiếng khi còn rất trẻ năm xưa. Thơ ông
mộc mạc nhưng có tính độc đáo. Ngôn ngữ thơ không mang những biểu trưng về hình
tượng hội họa nhưng lại là những hình ảnh đượm chất tâm linh. Cái hay của thơ
ông là giữ nguyên thủy ngôn ngữ học trò nhưng đầy tính nhạc, ý thơ vượt thoát
khỏi khuôn khổ nhà trường và mang tình yêu lứa đôi vào giáo đường, những nơi
thờ tự mà không e ngại cấm kỵ nhưng vẫn giữ tính tôn nghiêm. Nhà thơ giàu tưởng
tượng, hư cấu cái thực của đời qua ngôn ngữ thành những hình ảnh sống động làm
phong phú ý thơ :
“vì tôi là linh mục
không mặc áo nhà giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang ! ..
tín đồ là người tình
người tình là ác quỉ... »
(
Linh Mục) (1970).
Thi sĩ là người ngoại đạo yêu hai người bạn gái cùng trường vào hai thời điểm
khác nhau vài năm, một người tên là Bùi Thị Duyên, một người tên là Nguyễn Thị
Minh Thủy. Hai người cùng có đạo nên ông thường hay ngồi quán cafê để ngắm nhìn
người mình yêu đi xem lễ, đôi khi đi theo người yêu vào nhà thờ:
«Chuông nhà thờ đổ mệt,Tượng Chúa gầy hơn xưa..
Anh bây giờ có lẽ, Thiết tha hơn tín đồ…».
Đối vói Bùi Thị Duyên thi sĩ yêu đơn phương đắm say trong mộng ảo, dù biết là
vô vọng nhưng vẫn cứ yêu. Người ấy đã đi lấy chồng, bỏ trường bỏ phố ít về chốn
cũ. Nỗi trống vắng làm nhà thơ cảm nhận sự bẽ bàng tột cùng của tình yêu. Nhà
thơ xót xa cho tình yêu nhưng thương những kỷ niệm, ông tìm đến giáo đường
hướng tâm hồn về đức tin Thiên Chúa để tìm sự an lạc, dù rằng nơi ấy đã vắng
tiếng cầu kinh của nàng! Vào năm 1970 thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên viết bài thơ Khúc
Tình Buồn, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc và đã đổi Tụa là: Thà Như Giọt
Mưa đã trở thành một ca khúc nổi tiếng và nhờ đó công chúng biết đến bài thơ.
Lời thơ mang chút triết lý nhân sinh, nhưng ý thơ lại diễn tả một mối tình
tuyệt vọng :
«Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá, thà như giọt mưa khô trên tượng đá,
có còn hơn không, có còn hơn không ?...»
Giọt mưa vốn mong manh và rơi trên đường sẽ biến vào hư không, nhưng giọt mưa
trong thơ là khối tình được ẩn dụ qua hình tượng như giọt thủy tinh vỡ trên
tượng đá tan thành trăm mảnh. Phải chăng thi sĩ muốn thà là cứ yêu để tình tan
vỡ mà còn được quyền yêu cho tâm hồn biết tình là say đắm. Đó là ý nghĩa của câu
:«Có còn hơn không». Nhà thơ chẳng triết lý cao xa nhưng lý lẽ của tình
yêu lại là một triết lý về lẽ đạo. Từ một thể chân không vi diệu biến hóa thành
hiện tượng vũ trụ cảnh trí thì đối với nhà thơ giữa nhị nguyên Có và Không thi
sĩ vẫn chọn là Có để thể hiện nguồn cảm xúc giữa Người và Vật, Tâm và Cảnh của
bản ngã trong thế giới hữu tình. Vì trong cái không thăm thẳm đó chỉ có người
giác ngộ mới nhận chân được giá trị tánh không tâm linh!
«Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
Thà như giọt mưa vỡ trên mặt Duyên
Để ta nghe thoáng tiếng mưa vội đến
Những giọt run run ướt ngọn lông măng…».
(Khúc tình buồn) (1970)
Quá cuồng si, nhà thơ còn ví người tình của mình là như vị nữ tu :
«Em hiền như ma sœur
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta làm mủ
Ma soeur này ma soeur ..»
(Ma Sœur (1971)
Nhưng với Nguyễn Thị Minh Thủy tình yêu đến hơi muộn, có đôi chút trắc trở ban
đầu nhưng vẫn được đáp nhận, sau đó kết thành vợ chồng:
«Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao…..
Em không còn thắt bính
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn lýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư…..
Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua…
Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa..
Anh bây giờ có lẽ
Thiết tha hơn tín đồ …»
( Hai Năm Tình Lận Đận)(1972)
Thơ ông có những đoạn được lập lại tạo thanh âm như nhịp láy làm nổi bật ý
thơ : «thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá, thà như giọt mưa khô trên tượng đá,..». Các
nhạc sĩ tài hoa đã nhận được cái tính nhạc trong thơ ông nên phổ thành những ca
khúc hay. Nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ : «Thà Như Giọt Mưa, Em Hiền Như Ma Soeur,
Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Hai Năm Tình Lận Đận. Nhạc sĩ Anh Bằng phổ bài thơ Trúc
Đào, và Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ một bài thơ Linh Mục.
Dòng lãng mạn hòa với tâm linh khiến
hồn thơ chắp cánh bay vào cõi bồng phiêu, nơi chỉ còn lại chấm sáng của tình
yêu. Nương theo Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng để vào cõi huyền hoặc bằng con
tim nồng cháy, như ánh lửa hơ ấm những tâm hồn ở bên kia bờ xa thẳm qua lối thơ
Tượng Trưng được trau chuốt, gọt dũa, có nhiều ý hay lạ, nhiều hình ảnh và ngôn
từ quái dị, yêu ma:
“Cười lên em, khóc lên em
Đâu trăng tình sử nét trần duyên
Gót sen tố nữ xôn xao đêm huyền.
Ta đi lạc xứ thần tiên
Hồn trùng dương hiển bong thuyền u minh
Ta gởi bài thơ anh linh
Hỡi người trong mộ có rung mình
Nắm xương khô lạnh còn ân ái
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình.
hỡi người tuyết trinh, hỡi người tuyết trinh
Mê em ta thoát than hình
Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm….”
(Gởi
Người Dưới Mộ)
Ở thuở ban đầu khi đường tình mới chớm nở, thi nhân đã xem thơ và người tình
đều là tri kỷ vi thơ đã giúp cho tình yêu thăng hoa. Nếu hội họa khởi đi từ óc
tưởng tượng và do bàn tay khéo léo biết kết hợp đường nét, màu sắc, ánh sáng và
bóng tối để tạo nên bức tranh ấn tượng thì thơ cũng cần có sự tưởng tượng để
tạo nên hình ảnh linh động. Trong bài thơ Tương Tư của thi sĩ Nguyên Sa, nhà
thơ đã vẽ lên một bức tranh ấn tượng mà họa sĩ muốn họa lại nét thơ chắc phải
ngừng cọ rất lâu để tìm chất liệu tạo hình:
“Tôi đã gặp em tự bao giờ
Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya.
Kể từ gió thổi trong vừng tóc,
Hay lúc thu về cánh nhạn kia.
Có phải em mang trên áo bay,
Một phần gió thổi một phần mây.
Hay là em gói mây trong áo?
Rồi thở cho làn áo trắng bay…”
(Tương Tư)
Thi sĩ Thái Can qua bài Em Biết Anh Đi:
“Em biết anh đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở về.”
(Anh Biết Em Đi)
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
“Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này?
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say.
Em đến như mây, chẳng đợi kỳ,
Hương ngàn gió núi động hàng mi.
Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Hò hẹn lâu rồi - Em nói đi …”
( Bài Ca Hạnh Ngộ)
Thi sĩ Huy Cận:
“Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ...”
(Ngậm ngùi)
Ở thời đại khoa học tiến bộ vượt bực, đời sống vật chất cao đã ảnh hưởng
đến đời sống con người. Chất lãng mạn bị dần khô héo, mặc dù ngoại cảnh nơi xứ
người vẫn bốn mùa thay đổi. Phải nặng tình thơ lắm thi nhân mới dám ôm cái
nghiệp dĩ vào thân, lắng hồn mình hòa với ngoại cảnh để thấy hoa cười trong
nắng mai, sợi buồn giăng cỏ úa, và gom ngoại cảnh nhập thành tâm cảnh nghe nỗi
buồn trong sâu thẳm len qua tiếng trhở dài. Trên bước đường tha hương thơ là
bạn đồng hành của người xa xứ.Thơ đã chia sẻ niềm đau, nỗi nhớ và sự cô đơn. Ở
tuổi quá đôi mươi, người làm thơ bị đời cuốn hút, cuộc sống bị thực tế cọ sát,
chất thơ học trò mơ mộng bị hòa với cuộc sống nhập theo từng hoàn cảnh, đời và
thơ quyện nhau tạo thành những dòng chảy muôn hướng. Có những nhà thơ thích làm
mới thi ca, muốn tìm tòi đổi mới ngôn ngữ, thể nghiệm một bút pháp lạ,một hình
thức diễn đạt mới đìều đó rất qúy và khuyến khích, những tiếc thay nhiều người
làm thơ đã lạm dụng sự cảm xúc để vội vã thành danh nên không cẩn trọng tính
thẩm mỹ của thi ca nên đã không trân trọng Thơ, do đó đã gây cho làng thơ trong
nước cũng hải ngoại bị dao động, xôn xao ! Những áng thơ tình tạm lắng xuống
nhường cho những nguồn thơ khác như: Quê Hương, Thân phận, Chiến Tranh, Ngục
Tù, Tâm Linh… Thi sĩ cũng từ đó mà bước ra dệt gấm hoa cho đời. Ở tuổi trung
niên và cao hơn, thơ "lứa đôi"
lại càng xa vời, khó diễn đạt hơn những thể loại khác….khó về cảm hứng, sự rung
động, lòng đắm say để dệt bài thơ hay?
Chỉ có thi sĩ mới rung cảm được với cái buồn tha nhân mà hóa thân nhập vai để
diễn tả nỗi đau, sự bẽ bàng, giọt nước mắt của tha nhân, đồng điệu buông tiếng
thở dài, hay vút cao lời hân hoan ca ngợi.
Ở trên đời, nếu chỉ có một loài hoa thì nghệ sĩ sẽ không còn cảm hứng sáng tác
về sự nhiệm màu của thiên nhiên? Thơ cũng như hoa muôn màu muôn sắc, tùy theo
nhịp đập rung cảm của thi nhân. Nhà thơ không làm công việc của nhà lý luận,
nhà khoa học, nhà thần học hay triết gia…để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện
hữu, cái huyền bí của vũ trụ..vv..nhưng thi nhân có thể sống với với tôn giáo,
luân lý qua tâm linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời, và sống triết qua
thơ. Hồn thơ tựa ánh sao băng, thoáng trên bầu trời từ một hành tinh xa xăm nào
đó trong vũ trụ lạc xuống trần, đọng trên kẽ lá thành những hạt sương mai. Bỗng
ngọn gió vô tình lướt qua lay động cành cây làm vỡ những viên ngọc trời thành
muôn mảnh. Trước khi tan biến nó vẫn dựng được màu sắc rực rỡ của bình minh.
Đỗ Bình
Mộng Vàng - Sáng Tác Đỗ Bình - Hòa Âm& Phối Khí David
Đông - Ca Sĩ Xuân Phú
https://www.youtube.com/watch?v=ViPr9YYsDQc
No comments:
Post a Comment