THẦY TÔI
Năm tôi học đệ tứ Thầy Lâm Toại dạy
chúng tôi hai môn Việt văn và Pháp văn. Thầy đã về hưu, chắc đi dạy lại chỉ để
đỡ buồn. Mà chắc Thầy đỡ buồn thật, vì vào đúng cái lớp nghịch ngợm, ồn ào tối
ngày. Khổ cho Thầy lại phải làm giáo sư hướng dẫn nữa. Vậy mà mỗi khi
chúng tôi làm biếng, không thuộc bài, làm bài cũng kém lớp kia ( tôi còn nhớ Thầy
chỉ dạy có hai lớp) hoặc ồn ào bị ban giám thị mắng vốn, Thầy vẫn
không la mắng mà chỉ nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng, hỏi han khuyên nhủ. Nhưng
cũng vì vậy mà chúng tôi lại rất sợ, sợ thấy nổi đau trong đôi mắt hiền từ của
Thầy. Cả lớp lặng im tới nổi nghe được hơi thở của nhau mặc dầu đã cố
nín. Hồi đó tôi làm trưởng lớp, mỗi lần thấy Thầy buồn như vậy là tôi lại
huy động cả lớp cố gắng học bài làm bài giỏi hơn, và nụ cười vui sướng của Thầy
là phần thưởng quí giá hơn cả những chồng phần thưởng cao ngất mà chúng tôi nhận
được vào ngày lãnh phần thưởng cuối năm.
Thuở đó tôi rất thích ba môn Việt, Anh,
Pháp cho nên khỏi phải nói là tôi cố gắng thế nào trong hai môn Thầy phụ trách.
Môn Việt có hai phần là nghị luận luân lý và nghị luận văn chương. Phần nghị luận
luân lý thì tôi không lo vì tôi vốn hay ưa bịa chuyện, chuyện gì trên trời dưới
đất tôi cũng bịa ra được. Phần nghị luận văn chương thì tôi hơi ngán vì năm đó
chúng tôi phải học truyện Kiều suốt cả năm. Mà truyện Kiều thì thú thật tôi
không ưa cho lắm. Nói ra điều này tôi chắc là 99% dân số Việt Nam, trong đó có
anh tôi, sẽ xì nẹt và chắc cụ Tiên Điền cũng phải đội mồ ngồi dậy mà xỉ vả tôi
không tiếc lời. Không phải là tôi không ưa văn chương trác tuyệt của cụ Nguyễn
Du mà tôi cũng phải công nhận là ông Nguyễn Tường Tam đã nói rất đúng khi
ông phán là "...trước quyển Kiều chưa có sách nào hay bằng, mà
sau quyển Kiều- kể đã được hơn một trăm năm rồi- cũng chưa có sách nào hay bằng".
Nhưng ông Nguyễn Tường Tam lại thêm," Đây không phải nói về bố cục trong
truyện Kiều, cũng không phải nói về nhân vật, duy chỉ nói về văn chương, về cái
hay của từng câu từng đoạn, về cách dùng chữ khéo, về cái tài tình, cái mỹ thuật
của văn chương Kiều". À ha, vậy là tôi vớ lấy cái câu này của ông Nguyễn
Tường Tam để kéo ông về phe tôi. Ông Nguyễn Tường Tam cũng nghiêng mình trước
văn chương của truyện Kiều chứ không phải ông ưa gì bố cục truyện Kiều hay nhân
vật Kiều. Ông Nguyễn Tường Tam ơi, ông đúng là tri kỷ của tôi. Tôi không thích
cô Kiều vì hồi đó tôi đã bắt đầu mê chuyện tình của Romeo và Juliet, chuyện
tình của Tristan và Isolde. Tôi thấy câu chuyện của cô Kiều hơi "quá
đáng" và cô Kiều không có cái mãnh liệt của Juliet hay Isolde. Chắc có người
lại la làng rồi. Nhưng thử nghĩ mà coi. Cô Kiều mới gặp Kim Trọng là
mê như điếu đổ, nửa đêm dám vượt tường hoa đến thăm, vậy mà sẵn sàng đẩy Kim
vào tay em gái cái rột. Phải tay Hoạn Thư thì đừng hòng, có chết thì thôi chứ cấm
đứa nào được rớ tới chàng. Tôi càng không ưa cô Kiều vì cô tài sắc vẹn
toàn nhưng hình như cô không có cái nhân cũng như cái trí. Cô đã bị lừa bao
nhiêu bận mà vẫn tin vào lời phỉnh phờ của Hồ Tôn Hiến, lại tham lam nhận bạc
nghìn cân của họ Hồ khiến cho Từ Hải, nhân vật độc nhất tôi thích trong toàn
truyện bị chết đứng thảm thiết. Khi cô trở thành bà Từ Hải thì trả thù Hoạn Thư
mặc dầu chính cô là người cướp chồng của Hoạn Thư mà Hoạn Thư không tạt a xít
cho là may phước quá rồi. Nếu Hoạn Thư không khôn ngoan thì chắc cũng đã mất đầu.
Lại trả thù cái đám lao nhao đã làm cho đời cô khốn khổ, đánh tới máu
rơi thịt nát. Sao không lấy lòng nhân giải oán để cho mọi người phục?
Xin đừng ai giận dữ vì đó chỉ là những suy nghĩ ngây thơ của một cô bé lớp đệ tứ.
Thôi thì cứ cho là tại tôi ganh tị với cô ta đi.
Vậy thì đã có thiên kiến về cô Kiều tôi
thấy cũng khó mà đem hết tâm huyết ra để hiểu thêm về cô và viết những bài nghị
luận văn chương hay ho về cô, Nhưng vì thương Thầy nên tôi quyết tâm gạt bỏ những
ganh ghét cá nhân để cố gắng viết những bài ca tụng tài sắc cô hết mình. Và có
lẽ vì lớp tôi cũng không yêu cô Kiều cho lắm nên tôi vẫn cứ dẫn đầu trong các
bài luận viết về cô.
Tuy vậy có một lần tôi thấy mình bắt đầu
đuối sức trong công việc khó khăn này - việc tìm hiểu, yêu thương và ca tụng cô
Kiều. Đó là lần thi đệ nhị lục cá nguyệt. Thầy ra đề tài "Kiều trước lầu
Ngưng Bích". Tôi ngồi thừ ra đến nửa tiếng. Tôi chẳng biết làm sao để đặt
tâm hồn mình vào tâm hồn cô để viết cho thật lòng mình. Tự nhiên tôi lan man
nghĩ đến Mẹ tôi, không biết hôm nay làm bài thi xong tôi có về sớm được để đi
mua bột cho Mẹ làm bánh. Trí óc tôi cứ lang thang từ chuyện này đến chuyện
khác về Mẹ và trong đầu tôi hiện ra những lần tôi bắt gặp Mẹ ngồi trên bậc đá
dưới bến sông, mặt dàu dàu, mắt đăm đăm nhìn về cuối chân trời. Hồi ấy
Ba tôi đi lính xa cả mấy tháng mới về nhà một lần. Ông bà ngoại tôi ở bên kia bờ
Bến Hải. Tôi không biết Mẹ tôi nghĩ gì, nhớ gì vào những buổi chiều ngồi
trên bậc đá đó, quanh chân nước sông chảy êm đềm. Tôi nhắm mắt lại
trong vài phút, đặt tâm hồn tôi vào tâm hồn Mẹ tôi và trong gần hai tiếng đồng
hồ, tôi hí hoáy phịa ra tâm trạng nàng Kiều qua tâm trạng Mẹ tôi, dựa vào những
câu :
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi
Tôi phịa được 10 trang giấy khổ lớn.
Nhưng nộp bài cho Thầy xong là tôi mất ăn mất ngủ. Tôi nghĩ là tôi đã đi lạc đề
và bồn chồn lo lắng đợi ngày Thầy phát bài. Càng tới gần ngày tôi càng sợ. Sợ
là Thầy sẽ thất vọng với cô học trò cưng. Sợ là các bạn được điểm cao hơn mình
thì ê mặt quá. Tôi nhất định phải làm sao tránh cái giờ phút đau buồn khi thấy
cái thất vọng trên mặt Thầy, trong mắt Thầy. Tôi cũng muốn tránh cái giờ phút
nhục nhã phải chứng kiến sự vui sướng của các bạn khi đá được tôi ra khỏi cái
vinh dự đi lấy sơ-mi cho Thầy. Tôi nghĩ bụng hay là mình cáo bệnh ở nhà. Nhưng
tôi lại sợ Mẹ tôi lo.
Sáng hôm đó tôi chần chờ cho tới lúc thấy
mấy cô bạn thân Ngọc Cầm, Hồng, Tuyên đi khuất bóng phía mũi Đập Đá
bên này tôi mới rời khỏi nhà, tha thẩn từng bước trong con xóm nhỏ. Tôi biết là
tụi nó sẽ không chờ lâu khi không thấy tôi chờ sẵn ở múi đập. Tôi nghĩ bụng nếu
mình vào lớp trễ, chờ cho Thầy bình phẩm xong và trả lại bài thì nỗi đau thương
nhục nhã có lẽ cũng vơi bớt đi phần nào vì mình không có mặt ở đó để nhận nỗi e
chề đập ngay vào mặt. Vậy là tôi quyết định vào lớp trễ độ nửa giờ. Nhưng làm
sao vào trễ đây? Tới giờ vào lớp là cổng trường khóa lại, đâu có để cho tôi vào
giữa chừng giờ học. Đầu óc tôi rối bời bời. Đang đi tôi bỗng kêu "ái"
lên một tiếng. Trong lúc suy nghĩ tìm mưu thần chước quỉ để vào lớp trễ, tay phải
tôi cứ đưa ra vuốt dọc hàng rào chè tàu nhà Cẩm Tú mà không để ý. Trong đám chè
tàu có cây gai chích vào tay tôi đau điếng. Bỗng nẩy ra trong óc tôi một mưu
chước quái đản mà tôi nghĩ là trên cõi đời này chắc không có một cô nữ
sinh thứ hai có thể điên tới cái độ nghĩ tới một chuyện như vậy.
Tôi nghĩ tới phòng y tế của trường là
nơi tôi có thể tá túc trong khoảng nửa tiếng đồng hồ nếu tôi có lý do chính
đáng. Vậy là tôi bứt ngay hai ba cái gai nhọn và hăm hở đi mau tới trường, vừa
kịp nối đuôi những cô nữ sinh cuối cùng vào lọt cổng trường. Tôi vừa bước về
phía phòng y tế vừa dùng mấy cái gai nhọn đâm vào lòng bàn tay phải đã bị gai
đâm vừa rồi và nặn cho máu chảy ra. Gặp cô y tá, tôi mếu máo, "Cô ơi, em bị
té vô bụi gai, tay bị gai đâm, máu chảy nhiều quá, mà em thấy hơi chóng mặt nữa,
cô cho em ngồi đây một lát được không cô?". Cô y tá vội vã bảo tôi tới ngồi
nơi giường, tìm thuốc xứt và băng bó cho tôi. Ngồi nghỉ khoảng nửa giờ,
tôi áng chừng Thầy đã trả xong bài thi cho lớp, và chắc Thầy đã lên án xử tử kẻ
vắng mặt nên đứng dậy cám ơn cô y tá và lò dò lê bước tới lớp. Tôi sửa soạn một
bộ mặt nhăn nhó làm ra vẻ đau đớn lắm để khơi dậy lòng trắc ẩn của Thầy mà mong
Thầy mở lượng hải hà giảm án tử hình xuống thành chung thân, chung thân khổ sai
cũng được. Tôi vừa ló nửa mặt vào lớp, các bạn đều thấy tôi nhưng Thầy chưa thấy,
thì nghe Thầy dõng dạc, "Và đây là bài của Thu Tâm". Trời hỡi, thiên
bất dung gian. Quỉ kế của tôi vậy là đi đong. Tôi muốn quay đầu chạy nhưng đã
quá trễ. Thầy đã trông thấy tôi. Tôi bước chầm chậm về phía Thầy, chìa ngay bàn
tay ra trước để Thầy thấy tôi đang bị thương tích nặng. Mũi đã thấy cay
cay. Thầy ngừng nói, bước xuống bục giảng tới cầm tay tôi xuýt xoa, "Răng
rứa con? Răng rứa con? Đau lắm không?". Nước mắt bắt đầu chực chảy, tôi
cúi mặt để khỏi thấy sự quan tâm xót xa trong mắt Thầy và nói thật nhanh,
"Dạ thưa Thầy, con bị té vô bụi gai, xướt tay chảy máu, phải xuống phòng y
tế để cô y tá băng bó nên vô trễ đó Thầy." Thấy nói thật dịu dàng,
"Thôi về chỗ ngồi nghỉ một lát rồi xuống văn phòng lấy sơ mi cho Thầy".
Tôi khựng lại một chút, bụng nghĩ, Thầy nói chi rứa Thầy. Trườn vô chỗ ngồi giữa
chị Mười và Thương Lãng, tôi ù tai nghe Thầy khen bài luận văn của tôi làm đặc
sắc nhất từ trước tới nay. Tự nhiên tôi có cảm tình với cô Kiều hơn một chút.
Cuối năm học, tôi xin Thầy viết ít chữ mở
đầu cho cuốn lưu bút của tôi. Đây là lần đầu tiên tôi có cuốn lưu bút vì tôi biết
là sau năm này tôi sẽ không còn ngồi chung lớp với rất nhiều bạn bè của tôi. Thầy
làm cho tôi một bài thơ bắt đầu bằng tên tôi. Nhìn giòng chữ nghiêng nghiêng hiền
hậu của Thầy tôi lại nhớ tới cái chước quỉ của tôi hôm nào và mối quan tâm
thương xót ẩn trong mắt Thầy. Đã bao lần tôi muốn tỏ bày lòng ân hận với Thầy
và xin Thầy thứ lỗi. Vậy mà sao khó mở miệng quá.
Năm sau Thầy không còn dạy ở trường nữa.
Tết năm đó tôi quyết định lên thăm Thầy một mình. Tôi ít khi đi thăm Thầy Cô dù
với bạn bè, nói gì đến chuyện đi thăm một mình. Nhưng bây giờ Thầy không còn dạy
chúng tôi nữa, tôi không sợ bạn bè nghĩ là tôi "nịnh" Thầy. Thầy hỏi
han chuyện học hành của tôi với giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ mà chúng tôi thường được
nghe trong lớp. Giọng của người cha già nói với con gái nhỏ. Tôi thấy không phải
là tôi đang thăm Thầy mà là tôi đang ngồi nói chuyện với cha tôi, được bao bọc
bởi một tình phụ tử đầm ấm lạ thường. Vậy mà bao lần mở miệng tôi vẫn không nói
ra được cái chuyện láu cá ngày nào đã làm Thầy bận lòng để xin Thầy tha tội. Buổi
trưa xứ Huế dẫu là mùa Xuân vẫn bắt đầu nóng nực, tôi xin phép Thầy ra về. Thầy
đưa tôi ra tận cầu Dã Viên, cười hiền từ, "Con thông minh và học giỏi lắm.
Thầy cầu chúc con tiến xa, ít nhất cũng xong đại học nghe con". Không hiểu
tại sao Thầy nói vậy. Tôi đoán có lẽ là Thầy biết gia cảnh nhà tôi nghèo, đông
anh em, Thầy sợ tôi bỏ học giữa chừng. Tôi lại mở miệng định nói mà chỉ lí nhí
thành câu, "Thưa Thầy con về".
Từ ngày xong đại học, ra trường được bổ
đi xa, tôi chẳng có dịp nào gặp lại Thầy, chỉ nghe tin Thầy đã qua đời. Thầy
ơi, con chỉ biết cúi đầu xin Thầy tha thứ.
Thu Tâm
No comments:
Post a Comment