LỊCH SỬ NGÀY TẠ ƠN TẠI HOA KỲ
Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng
1/ Lễ Tạ
Ơn thời xa xưa
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu
châu do những nguyên do khác nhau như ăn mừng thắng trận,
mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh... Nghi lễ
Thanksgiving được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578,
khi nhà thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức
lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy
hiểm trên biển cả.
Có tám quốc gia trên thế giới chính thức
tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn,
Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ
Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để
cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết
ơn của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận. Từ đó nghi lễ cứ tiếp
tục..
Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng
năm có tổ chức lễ hội để cúng dường Demeter, nữ thần chăm nom
mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.
Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội
cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi,
diễn hành và lễ lạc
Lễ gặt hái Sukkoth: Lễ gặt
hái Sukkoth vào mùa Thu của người Do Thái vẫn còn tồn tại
từ ba ngàn năm đến nay
Một trong những
biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng
trưng múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng
cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi
ông bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang lại sự phồn
thịnh cho những ai bà muốn ban phước.
Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu
châu có những lý do khác nhau như thắng trận, mùa gặt
hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh...
Nghi lễ Thanksgiving được tổ chức
lần đầu tại miền Bắc nước Mỹ, năm 1578, khi nhà thám hiểm Martin
Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức lễ này để tạ ơn Trời đã bảo
vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.
2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang
châu Mỹ -
Tàu Mayflower
Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620,
khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ
gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy
thủ khoảng 25-30 người và 35 người rất sùng đạo Tin lành
đã bị vua Jacques đệ nhất đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là
nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .
Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.
Tại Anh, có những cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền
quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên
Pháp, cũng không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi
vua Henri IV bị ám sát... Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một
"Jérusalem mới" ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng Elizabeth đệ nhất khuyến
khích cho dân đến vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.
3/ Nơi đến không định trước
Các Pilgrims lên tàu vào
tháng 9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn.
Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi
người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra tai nạn về lửa nên người
ta phải ăn thức ăn lạnh. Nhiều hành khác đau bịnh.
Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà
đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown,
thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa
là "người đã làm một chuyến du hành"). Chỉ một thủy thủ và một hành
khách chết. Sau 65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng
11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc
đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile =
1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này làMassachusetts.
Tuy biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm
đó một hiệp ước sống hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower
Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ
địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court,
để bầu những tổng đốc, những viên chức hành chánh, lập ra luật lệ,
điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng
ngày càng rộng lớn ra, không thể mời tất cả các trại chủ hội
họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.
4/ Khó
khăn lúc đầu
Họ tới Plymouth Rock ngày 11
tháng 12 năm 1620. Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước hòa bình với
người dân da đỏ khi vực láng giềng (Narranganset và Wampanoag) .
Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng không quan trọng lắm.
Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa
đông quá lạnh và đầy giông bão .
Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc
khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch đã làm cho 46 người trong số 102
người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số 18
người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ
ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp. May mắn
thay mùa gặt năm 1621 thành công giúp những người di dân sống sót
nên họ quyết định làm lễ Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ
chức lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ
(thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì
đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.
Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng
vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên họ cho một nhóm 50 binh sĩ
mang một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách.
Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc
súng và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.
5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
a) Lễ Tạ Ơn tại
Mỹ
Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền
Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào
năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những
người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những
ngày đầu Ðông
Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước
Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên
ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầuđứng lên chống lại
đế quốc Anh để giành độc lập và khi George Washington thoát
khỏi cuộc bao vây ở Valley Forge, ông đã tuyên bố ngày lễ
quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.
Đến năm 1830
dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc thành lập ngày
lễ Tạ Ơn và sau đó bà Sarah Josepha Hale đi cổ động
trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu
bang.
Đến khi Nam Bắc nước Mỹ phân
tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày
lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu
tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863
và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11
Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt,
vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, Quốc Hội Mỹ
đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ
của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công lao những người
đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy
định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.
b/ Lễ tạ ơn tại Canada:
Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của
tháng 10
Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng
43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một
nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định
cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì
đã sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người
định cư khác đến và những buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại
đây cũng được tổ chức tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện mùa
gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước
6/ Các món ăn:
Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy
nhiên họ không thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ
"turkey" lúc bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ
... Chắc chắn là họ không làm bánh nướng nhân bí ngô bởi vì họ không có bột
và đường; và phần đông không ăn khoai tây vì họ cho khoai tây
độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống
lại các côn trùng, nên đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).
Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn
tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp
Gà tây: Cho dù những người hành
hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây
luôn luôn được gắn liền với lễ này
Bí đỏ: Là loại rau đã cứu
sống những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở
thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.
7/ Tem
cho lễ Thanksgiving
Năm 2000 được tuyên bố là năm quốc
tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của
Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ)
8/ Hình ảnh
của Mayflower
Sau khi rời Plymouth, những ngày đầu
tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..
Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị
ngọn khổng lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ.
Ông là người thứ 13 ký tờ Mayflower Compact Act và
cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn lần đầu. Ông sinh 10 con và 82
cháu. Tưởng tượng nếu như ông buông tay và không được cứu sống thì
sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi
vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley
Lễ tạ ơn - Thanksgiving
Thanksgiving là một ngày lễ tổ chức tại
khu vực Bắc Mỹ, thường được coi là dịp để bày tỏ lòng biết ơn. Nguồn gốc của Lễ
Tạ ơn là để cảm ơn Chúa đã ban cho vụ mùa bội thu. Tại Mỹ, ngày lễ này được tổ
chức vào thứ 5 của tuần thứ tư tháng 11. Tại Canada, dịp này được tổ chức vào
ngày thứ 2 tuần thứ hai của tháng 10, còn gọi là Ngày Columbus.
NGÀY LỄ TẠ ƠN Ở HOA KỲ
Tỏ lòng biết ơn là một hành vi đạo đức
cao quý của con người có văn hóa tốt. “Thank You” là câu nói phải có của những
người lịch sự. Từ thuở xa xưa chưa có lịch sử, loài người đã cử hành các cuộc tế,
lễ để tỏ lòng biết ơn về những gì mà Trời đất ban cho con người. Phong tục này
có trên khắp hoàn cầu và bộ tộc lâu đời nào cũng cử hành ít nhất là một lần trong
năm với những tiệc thịnh soạn để ăn mừng mùa màng đã thu hoạch tốt.
Sử chép rằng giống nòi Việt vốn dòng dõi
Vua Thần Nông (vị vua giúp dân phát triển việc trồng lúa để giải quyết vấn đề
thực phẩm cho dân chúng mà dân số càng ngày càng tăng theo cấp số nhân) hàng
năm tổ chức nhiều ngày hội hè ăn mừng được mùa. đặc biệt là ngày Tết Nguyên
đán, nhà vua cử hành lễ Tế Trời đất và dân gian nấu bánh chưng và bành dày làm
lễ Cúng Trời đất.
Những bộ lạc da đỏ ở Châu Mỹ cũng có
truyền thống tạ ơn đấng Tạo Hóa về tất cả những gì họ có. Hàng năm họ tổ chức
ăn mừng 4 lần hoặc 6 lần với thịt hươu chứ không phải là gà lôi (turkey).
Ở Âu Châu, truyền thống tạ ơn Chúa về những
thu hoạch mùa màng đã được thực hiện rất phổ biến tại nhiều nơi với những tiệc
tùng, khiêu vũ, và đốt pháo bông vào Mùa Thu từ Những Thời Trung Cổ.
Ở Anh Quốc, Ngày Lễ Tạ Ơn xưa kia có tên
là Harvest Festival (Hội Mừng được Mùa) được các nhà thờ cử hành trên khắp nước
vào ngày Chúa Nhật để đánh dấu mùa gặt hái tại địa phương chấm dứt. Tập tục này
lan qua Mỹ Châu bởi những di dân đầu tiên và tới năm 1863, Harvest Festival được
đổi tên là Thanksgiving hay Thanksgiving Day được tổ chức vào thời điểm công việc
mùa màng đã xong.
Hiện nay, ở Canada, Lễ Tạ Ơn được tổ chức
vào Thứ Hai của tuần lễ thứ nhì trong Tháng Mười.Ở Mỹ, Thanksgiving được chính
thức cử hành trên toàn quốc vào Thứ Năm của tuần thứ tư trong Tháng Mười Một.
Thanksgiving Day còn có tên là Turkey
Day và được Tổng Thống Roosevelt ký thành luật vào ngày 26 tháng Mười Một năm
1941.
Nguồn Gốc Khác Nhau về Lễ Tạ Ơn ở
Hoa Kỳ
Trước đây, dân chúng Hoa Kỳ mỗi tiểu
bang đều có một ngày cử hành Lễ Tạ Ơn Trời và cũng để nhớ ơn những thổ dân đã
chỉ cách trồng trọt cho những người di dân tới Mỹ Châu.
Ngày nay, hàng năm cứ đến Thứ Năm của tuần
lễ thứ tư trong tháng Mười Một, dân chúng Hoa Kỳ lại cử hành Thanksgiving Day
hay Thanksgiving. đó là Ngày Lễ Tạ Ơn vào dịp mùa màng chấm dứt tại Hoa Kỳ.
Có nhiều nhân vật thời di dân ghi chép lại
những ngày lễ tạ ơn ở Mỹ Châu. Trải qua thời gian dài xây dựng Hợp Chủng Quốc,
các vị tổng thống đã ấn định những ngày Lễ Tạ Ơn vào những ngày khác nhau và
thường với mục đích là để hàn gắn vết thương của Cuộc Nội Chiến. Mãi đến năm
1941, Ngày Lễ Tạ Ơn mới được áp dụng chung trên toàn quốc Hoa Kỳ.
Nhóm Hành Hương Tị Nạn Tôn Giáo: The
Pilgrims
Vào thời gian đầu mới tới Mỹ Châu, Nhóm
Hành Hương (The Pilgrims) dành riêng một ngày để ăn mừng sau mùa gặt hái vào
năm 1621 tại Plymouth Plantation, Massachusetts.
Sự tích là vào ngày 6 tháng Chín năm
1620, từ thị trấn Plymouth, Anh Quốc, 44 người ly khai Giáo Hội Anh Cát Lợi dẫn
một nhóm 66 người di tản sang Tân Thế Giới Mỹ Châu) trên con tầu tên là The
Mayflower. Bốn mươi bốn người ly khai tự mệnh danh là “Thánh” (Saints), còn những
người khác thì họ gọi là “Người Lạ” (Strangers).Cuộc hành trình vất vả, có nhiều
bất đồng, và kéo dài tới 65 ngày.Khi trông thấy đất liền vào ngày 10 tháng Mười
Một thì đã có một người chết.Lúc sắp sửa cặp bến, họ ký kết với nhau một bản hợp
đồng gọi là Mayflower Compact bảo đảm sự bình đẳng và thống nhất hai nhóm.Họ kết
hợp lại và tự mệnh danh là The Pilgrims.
Họ dự tính định cư tại Virginia, nhưng
sau đó, vì bão tố, họ phải đổ bộ lên một nơi nay gọi là Plymouth, Massachusetts
và định cư ở đó. Mùa đông năm ấy, nhờ sự giúp đỡ của thổ dân Wampanoag cho thức
ăn và chỉ dẫn cách trồng trọt và săn bắt nên đoàn người mới sống sót.
Năm sau, vào Mùa Thu, 1621, mùa màng thu
hoạch tốt, Thống đốc William Bradford tuyên bố một ngày tạ ơn. Khoảng 50 di dân
tổ chức Harvest Festival (Hội Mùa Gặt) đầu tiên kéo dài ba ngày và họ mời khoảng
90 thổ dân Wampanoag tới cùng chung vui và bày tỏ lòng biết ơn.
Ngày Thanksgiving đầu tiên:
Thống đốc William Bradford ghi lại ngày
ăn mừng này trong tập Of Plymouth Plantation và dưới đây là vài hàng trích dẫn:
Bấy giờ mọi người bắt đầu thu hoạch số
hoa màu nhỏ đem chất chứa trong nhà hay kho để dành cho mùa đông. Tất cả mọi
người đều đã phục hồi sức khỏe và mọi thứ đã có đủ.Một vài người đi xa; số ở lại
thì đi câu cá và chia phần cho mọi nhà.Suốt mùa hè đó, họ không có thiếu thốn
gì.Và bây giờ thì họ kiếm thêm chim chóc chứa vào kho vì mùa đông sắp tới và
nơi này thì chim chóc có rất nhiều. Ngoài chim chóc, còn có rất nhiều gà rừng
và nai v.v. Hơn nữa, họ lại có một số lượng thực phẩm thu hoạch như là bắp
(Indian corn).
Edward Winslow viết Mourt’s Relation
và vài hàng trích dẫn sau:
Mùa màng của chúng tôi đang được thu hoạch,
vị thống đốc của chúng tôi phái bốn người đi bắt chim chóc để chúng tôi ăn mừng
sau mùa thu hoạch do công lao của chúng tôi. Nhóm bốn người đã bắt được chim
chóc thật là nhiều có thể dùng hầu như cả tuần cho mọi người.Vào lúc đó, trong
những trò giải trí, chúng tôi thực tập bắn súng và có khoảng 90 thổ dân được mới
tới tham dự trong đó có cả Vua Massasoit. Chúng tôi vui chơi ăn uống suốt ba
ngày; một nhóm thổ dân ra ngoài săn bắt 5 con hươu (deer) đem về tặng cho thống
đốc và các đội trưởng. . .
Nói tới buổi Lễ Hội được Mùa năm 1621
này, cũng nên nhắc lại chuyện một thổ dân tên là Tisquanto hay còn gọi là
Squanto.Có lẽ Squanto là một trong số ít người đầu tiên được tiếp xúc với văn
minh Âu Châu.Rồi, sau khi trở về quê hương để làm gạch nối giữa người da trắng
và da đỏ, thì anh lại bị đồng bào anh coi là kẻ thù vì không chấp nhận sự hợp
tác của anh với người da trắng.Tuy nhiên, anh vẫn kiên trì với thiện chí làm bớt
đi những cuộc chém giết giữa người di dân và người da đỏ.
Khi người Âu Châu mới tìm ra Mỹ Châu,
đoàn thám hiểm đã tổ chức bắt cóc một vài trẻ em bản xứ trong đó có Squanto đem
về Anh quốc với mục đích để dạy dỗ cho nói tiếng Anh làm thông dịch viên sau
này. Squanto được trao cho một giáo sĩ nuôi rồi được theo các tầu buôn trở về Mỹ
Châu.
Trở về Mỹ Châu, Squanto đã tìm cách vượt
trốn khỏi vòng tay người da trắng, nhưng rồi bị bắt và bị bán làm nô lệ trôi nổi
khắp đó đây kể cả Tây Ban Nha và các bến cảng Châu Phi. định mệnh xui khiến, một
ngày nào đó Squanto lại xuất hiện ở quê hương của mình. Khi đoàn người di dân đổ
bộ lên Plymouth, Massachusetts và đang sắp bị chết đói thì Squanto xuất hiện
cùng với một số thổ dân người Wampanoag. Họ mang theo thức ăn cho người di dân
và dạy người di dân cách trồng trọt và săn bắt. Nhờ đó mà đoàn di dân đã sống
sót qua mùa đông băng giá năm đó và có thu hoạch tốt vào Mùa Thu năm sau. Chẳng
bao lâu sau đó, Squanto bị lây bịnh sốt rét và qua đời. Hiện nay người da trắng
và da đỏ vẫn còn nhớ ơn Squanto.
Những Buổi Tiệc Tạ Ơn Khác Trên
Mỹ Châu
Ngày 23 tháng Năm, 1541, Francisco de
Vásquez de Coronado cùng thổ dân Tejas tổ chức Hội Tạ Ơn tại Palo Duro Canyon,
Texas để ăn mừng cuộc hành trình của Francisco đi tìm thấy thực phẩm. Trong ý
nghĩa tiệc mừng của người Âu Châu tạ ơn Chúa, ngày này cũng được nhiều người
cho là đích thực Ngày Lễ đầu Tiên Tạ Ơn Chúa ở Bắc Mỹ.
Một tiệc mừng kế là tiệc mừng do Pédro
Menéndez de Avilés tổ chức tại St. Augustine, Florida, ngày 8 tháng Chín, năm
1565. Tiệc mừng này cũng được cho là Thanksgiving đầu tiên tại Mỹ.
Một buổi tiệc khác cũng được cho là Lễ Tạ
Ơn đầu Tiên ở Mỹ Châu là bữa tiệc của Don Juan de Onate tổ chức ngày 30 tháng
Tư năm 1598 tại gần San Elizario, Texas.
Quốc Hội và Tổng Thống Ấn định Ngày Tạ
Ơn
Đêm Thứ Tư trước ngày Thansgiving là một
trong những đêm bận rộn nhất cho các quán ăn và quán nhậu bởi vì đó là đêm đầu
tiên của các sinh viên trở về tỉnh nhà trong học kỳ.
Ngoài tiệc tùng, nhiều thành phố như New
York, Philadelphia, Houston, Detroit có tổ chức các trận đấu túc cầu
(footblall) và các toán diễn hành thường kết thúc bằng toán diễn hành của các
Ông Già Noel cho biết là Lễ Chrismas đã khởi đầu.
Trong Cuộc Chiến Cách Mạng Mỹ Châu (Cuộc
chiến chống Anh Quốc để thành lập ra Hoa Kỳ), theo thường lệ, Quốc Hội hàng năm
ấn định một hay nhiều ngày lễ tạ ơn. Riêng tháng 12 năm 1777, George Washington
đã tuyên bố một ngày tạ ơn nhằm vinh danh trận đánh thắng Anh Quốc ở Saratoga.
Vào những năm lên làm Tổng Thống, Goerge
Washington ấn định lại những Ngày Lễ Tạ Ơn.
Tổng Thống John Adams ấn định
Thanksgivings vào các năm 1798 và 1799
Tổng Thống Madison ấn định Thanksgiving
vào lúc kết thúc cuộc chiến, 1812.
Tại bang New York, thanksgiving hàng năm
được Thống đốc ấn định kể từ năm 1817.
Có một số tiểu bang ở miền nam không
nhìn nhận những ngày tạ ơn như các tiểu bang khác. Tới năm 1858 mới có 25 bang
và 2 lãnh thổ nhìn nhận Ngày Lễ Tạ Ơn.
Trong Cuộc Nội Chiến, Tổng Thống Abraham
Lincoln tuyên bố ngày Thứ Năm cuối cùng trong Tháng 11 năm 1863 là Thanksgiving
cho toàn quốc. Từ 1863, hàng năm toàn quốc Hoa Kỳ đều cử hành Lễ tạ Ơn vào ngày
Thứ Năm cuối cùng của Tháng Mười Một. Nhưng tới năm 1939 thì T.T. Roosevelt lại
tuyên bố rằng Thanskgiving nên là ngày kế ngày Thứ Năm cuối cùng trong tháng 11
hơn là ngày cuối cùng với mục đích giúp cho thời gian mua sắm vào dịp Christmas
được kéo dài hơn. đề xuất này không có tính bắt buộc nên chỉ có 23 bang theo
khuyến cáo này còn 22 bang khác không theo. Còn các bang khác, như Texas, đã ấn
định cả hai tuần lễ là ngày Tạ Ơn.
Tới năm 1941 thì Quốc Hội HK quyết nghị
lấy ngày Thứ Năm của tuần lễ thứ tư trong tháng 11 là ngày Thanksgiving.Ngày 26
tháng 11 năm 1941, T.T. Roosevelt ký ngày Tạ Ơn toàn quốc đó thành luật.
Khi Lễ Tạ Ơn chấm dứt thì mùa nghỉ lễ
mùa đông truyền thống lại bắt đầu. đó là mùa mua sắm cho Lễ Giáng sinh được khởi
sự vào ngày Thứ Sáu đen "Black Friday" ngay sau Ngày Lễ Tạ Ơn. Truyền
thống này được thành lập ít nhất là vào những năm 1930. Trong khi ngày nhộn nhịp
nhất về mua sắm vẫn là ngày Thứ Sáu sau ngày Thanksgiving thì ngày có số lượng
hàng bán ra lớn nhất là ngày Thứ Bẩy hay là ngày 23 Tháng 12. Hầu hết các cửa
hàng đều tăng số hàng tồn kho cho mùa nghỉ tháng Mười Hai vào ngay sau Ngày
Halloween, thậm chí có khi còn trước cả ngày vui đùa đó. Thứ Sáu sau Lễ Tạ Ơn
hay là Black Friday còn được coi như là ngày Không Mua Gì Hết mà những người phản
đối không mua sắm gì vì họ cho đó là những thói quen tiêu thụ phí phạm của những
nước Số Một trên Thế Giới.
Dầu sao thì Lễ Tạ Ơn mở ra ở
Mỹ Châu vẫn mang đầy ý nghĩa biết ơn Thượng đế và Những Thổ Dân đã cứu giúp những
vị Tiền Bối Hành Hương "The Pilgrim Fathers" những người đã đặt nền
móng cho Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Những hoạt động trong ngày Tạ ơn
Lễ Tạ ơn là một dịp để những người trong
gia đình và bạn bè gặp gỡ, cùng chia sẻ niềm vui. Ở Mỹ, đây là một ngày lễ quan
trọng của gia đình và mọi người có thể đi từ đông sang tây để gặp gỡ các thành
viên trong gia đình. Kỳ nghỉ Tạ ơn thường rơi vào "4 ngày" cuối tuần.
Dịp này phần lớn được tổ chức ở phạm vi gia đình, không giống như ngày 4/7 hay
lễ Noel, tổ chức rầm rộ với sự tham gia của công chúng.
Ở Canada, lễ Tạ ơn diễn ra trong 3 ngày
cuối tuần và không được coi trọng như ở Mỹ. Vào dịp này, các gia đình Canada
khó có thể tụ họp với nhau, thay vì thế họ coi ngày Noel là dịp để thành viên
trong gia đình đoàn tụ. Thêm vào đó, lễ Tạ ơn tại Canada lại rơi vào ngày thứ
2, nên người Canada có thể ăn bữa tối Tạ ơn vào bất kỳ ngày nào trong số 3 ngày
cuối tuần trước đó. Điều này có nghĩa, họ sẽ ăn tối cùng một nhóm họ hàng trong
1 ngày và một bữa khác với nhóm khác vào ngày hôm sau.
Một hoạt động không thể thiếu vào dịp Tạ
ơn là mua sắm.Bắt đầu từ những năm 1930, mùa mua sắm nhân dịp Giáng sinh bắt đầu
khi lễ Tạ ơn kết thúc.Tại thành phố New York, cuộc diễu hành nhân ngày Tạ ơn của
Tập đoàn Macy's được tổ chức hàng năm tại khu trung tâm Manhattan. Cuộc tuần
hành được tổ chức theo các chủ đề đặc biệt nào đó, hoặc mô phỏng các cảnh trong
những vở kịch trên sân khấu Broadway kèm theo những chùm bóng lớn vẽ nhiều nhân
vật hoạt hình hoặc diễn viên truyền hình nổi tiếng. Diễu hành nhân dịp Tạ ơn
cũng diễn ra ở một số thành phố khác như Plymouth, Houston, Philadelphia và
Detroit.
Dù ngày mua sắm lớn thứ hai trong năm tại
Mỹ là ngày Thứ Sáu Đen tới sau lễ Tạ ơn, hầu hết các cửa hàng đã bắt đầu dự trữ
hàng ngày sau lễ Halloween, đôi khi từ trước nữa.
Một hoạt động chính khác trong dịp lễ Tạ
ơn tại Mỹ là trận đấu football.Theo truyền thống, hai đội chuyên nghiệp sẽ
giao đấu vào ngày Tạ ơn. .
No comments:
Post a Comment