TRÒN 200 NĂM TRƯỚC, NGUYỄN
DU CHẾT TRONG ĐỢT DỊCH
Năm 1820 (Minh Mạng năm đầu), tháng 6 dịch
(tả) phát từ mùa thu sang mùa đông, bắt đầu từ Hà Tiên, sau rốt đến Bắc Thành.
Số hộ khẩu chết tất cả là 206.835 người, không kể số nam phụ lão ấu ở ngoài hộ
tịch. Trước sau chẩn cấp tổng kê hơn 73 vạn quan tiền - Đại Nam thực lục Chính
biên, tập 2.
Thực lục chép: "Hữu Tham tri Lễ bộ
là Nguyễn Du chết. Du là người Nghệ An rộng học giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ.
Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra mắt
vua thì sợ sệt không hay nói gì. Vua từng dụ rằng : “Nhà nước dùng người, duy có
tài là dùng, vốn không có coi nam bắc khác nhau. Khanh cùng Ngô Vị đã được tri
ngộ làm quan đến chức á khanh, nên điều gì biết thì nói ra hết, dâng điều hay sửa
điều dở, để hết chức mình. Sao cứ rụt rè sợ hãi, chỉ việc vâng dạ !”. Đến bây
giờ có mệnh sai sang nước Thanh, chưa đi thì chết. Vua thương tiếc, cho 20 lạng
bạc, 1 cây gấm Tống. Khi đưa tang về lại cho thêm 300 quan tiền". Năm đó Đại
thi hào Nguyễn Du 54 tuổi.
Nhà vua rất lo về dịch lệ, từng ở trong
cung trai giới và cầu đảo ngầm. Trấn thần Phú Yên là Nguyễn Văn Quế đem tình
hình bệnh dịch trong trấn dâng biểu xin chịu tội. Vua bảo rằng : “Trẫm không có
đức, trên can phạm hoà khí của trời, bốn phương có dịch đều là lỗi trẫm”. Nhân
sai Phạm Đăng Hưng theo ý ấy mà soạn dụ. Đăng Hưng tâu rằng : Gặp tai vạ biết
lo sợ, vốn là thịnh đức của đấng nhân quân. Nhưng thần nghe bệnh dịch từ Tây
dương sang, bệ hạ hà tất lấy làm tội của mình”.
Vua nói : “Nếu trẫm không thiếu đức thì
tai vạ ở nước ngoài vào làm sao được. Nguyễn Văn Quế chỉ là một mục thú còn tự
nhận là lỗi mình, huống trẫm là vua thiên hạ, có thể chối lỗi được sao ?”.
Lấy thuốc viên chữa dịch mới chế chia
cho bầy tôi. Xuống chiếu cầu lời nói thẳng. Chiếu rằng : “Trẫm nghe đường ngôn
luận mở rộng thì nước mới trị… Trẫm thấy thân nhỏ bé, nối nghiệp lớn lao... Nay
bỗng gặp khí trời không hoà, nhân dân khó sống, có lẽ là chính sự có điều gì
thiếu sót chăng, ẩn tình của dân có chỗ chưa suốt đến chăng ? Người muốn thấy
hình của mình, tất nhờ ở gương sáng ; vua muốn nghe lỗi của mình, tất phải đợi ở
tôi ngay. Vậy cho các văn võ ở Kinh từ Tứ phẩm trở lên, các quan thành dinh trấn
ở ngoài đều lo cố gắng, đua nhau đối đáp rõ rệt, hoặc lỗi chính ở trẫm, về kính
đức nối sáng có thiếu, về nhân ân yêu giữ chưa tròn. Vậy lấy chư thần làm bầy
tôi pháp độ, làm kẻ sĩ giúp vầy, như đá để trị ngọc, như đá để mài vàng, chớ
như lời nói của mình quý như vàng ngọc mà giấu, cần phải chỉ ngay vào điều lỗi
không kiêng kỵ gì… may ra trên báo đáp được lòng trời, dưới chữa sống được bệnh
dân, để cùng hưởng phước thái bình”.
Có thể nói, từ quan địa phương đến vua
Minh Mạng đều tự xét lỗi của mình khi dịch bệnh xảy ra, ngoài niềm tin về mệnh
trời thời đó, còn cho thấy nhân cách của người lãnh đạo, dám nhận trách nhiệm
và tìm biện pháp khắc phục. Cách quản trị đất nước hồi xưa cũng có những điều
hay như thế.
No comments:
Post a Comment