CHIA BUỒN
Nhận được tin buồn TS Nguyễn Văn Hướng, bút danh Hoài Việt là một nhà văn hóa, một nhà
thơ nổi tiếng ở hải ngoại, vừa tạ thế tại Paris
Ngày 4 tháng 7 năm 2022.
Hưởng thọ 91 tuổi.
Nguyện cầu hương linh
ông Nguyễn Văn Hướng sớm được tiêu diêu miền cực lạc.
Xin thành kính phân ưu
cùng toàn thể tang quyến.
Câu Lạc Bộ văn Hóa VN
Paris
Đỗ Bình, Lê Mộng Nguyên,
Nguyễn Đức Tăng, Phan Khắc Tường, Trần Văn Cảnh, Nguyễn Thùy, Nguyễn Bảo Hưng,
Võ Hùng Anh, Nguyễn Kim Long, Nguyễn Tối Thiện, Nguyễn Bá Linh, Nguyễn Mạnh
Trí, Nguyễn Thanh, Lê Minh Triết, Quỳnh Liên, Bích Thuận,
Diệu Khánh, Nguyễn Thị Minh Cầm, Phạm Thị Nhung, Nguyễn Thị Phượng
Anh, Nguyễn Thị Cung, Kim Lan, Thẩm Thái Hà, Từ Thạch, Nguyễn Mây Thu, Hà Lan
Phương, Thúy Hằng, Tuyết Dung, Kim Thu, Hải Yến, Hoàng Yến.
MỘT TẤM LÒNG QUÊ
Bước vào vườn thơ để thưởng thức sự rung cảm của thi nhân qua những sáng tác,
nhưng khó mà hiểu hết những điều kỳ diệu ẩn chứa trong tâm hồn nghệ sĩ! Trong
cõi hoa thơm cỏ lạ đó tình cờ có một số nhà thơ chọn chung một bút
hiệu:Hoài Việt.Trong bộ thi tập: Cụm Hoa Tình Yêu, do nhà thơ Như Hoa Lê Quang
Sinh ở Texas chủ trương, người đọc thấy có hai tác giả: Hoài Việt gốc Bình Định,
tác giả thi tập: Dòng Thơ Hải Ngoại 1993, hiện cư ngụ miền Nam Cali, một Hoài
Việt gốc Ba Xuyên là tác giả thi tập: Những Nẻo Đường Việt Nam, hiện định cư ở
San Jose, và một Hoài Việt gốc Huế hiện định cư ở Paris, tôi xin nói về
Nhà thơ này.
Hoài Việt tên thật là Nguyễn Văn Hướng,
sinh năm 1931 tại làng Ngọc Anh Huế.
Tác phẩm :
Tôi Yêu (thơ,1962)
Tình Em Nho Nhỏ (thơ in năm 1962)
Ngày Mẹ Về (thơ 1978)
Quê Người (thơ in năm 1987).
Amour et liberté (1995) thơ Pháp ngữ
Mai Vàng Đất Việt (với Ái Liên) họa truyện(1998)
Chút Tình Cho Huế (thơ, 2000)
Mây ngàn (với Vũ Hối) (2002) thi hoạ tam ngữ
La Dame de la pleine lune (2011)
chuyện song ngữ
Tình thương và Minh Triết ( với
Khánh Vân) (2008) thi họa song ngữ
Prix Michel Ange du « Cercle
Européen de la poésie, des Arts et des lettres »
Thuở còn rất trẻ ông theo những phong trào chống Thực dân đòi độc lập
tự do cho dân tộc. Công việc đang dở dang, bị
truy nã nên đã qua Pháp du học năm 1955, đỗ tiến sĩ và trở thành nhà
nghiên cứu khoa học thuộc: Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia Pháp, nhưng rất
thiết tha văn hóa dân tộc, và Bút hiệu Hoài Việt mang ý nghĩa này. Ông là một
trong nhóm chủ trương Bộ tuyển tập. Làng
Xưa Phố Cũ gồm những bài thơ, truyện ngắn và biên khảo và Bộ Duo song ngữ văn
chương Pháp Việt. Trong một số truyện ngắn như: Ngọc Anh, Máu Đẫm Cành Xoài…
ông diễn tả khung cảnh, sự việc, và tâm lý nhân vật rất tỉ. Ngôn ngữ trong truyện
được đãi lọc, câu văn mạch lạc, trong sáng, bố cục chặt chẽ và có ý tưởng. Ông
có khiếu viết văn nhưng rất tiếc ông lại không viết truyện nhiều!
Dù xa quê hương lúc còn trẻ nhưng trong tâm hồn nhà thơ luôn ấp ủ tình quê
hương. Ông nhớ quê nên đứng ra chủ trương tuyển tập Làng Xưa Phố Cũ:
«Làng xưa còn rõ hình dung Mẹ
Phố cũ chưa nhờa bóng dáng em»
Mẹ và em trong thơ là phần máu thịt thân thương trong gia đình
còn ở lại quê hương, nhưng mẹ ở đây còn mang ý nghĩa Mẹ Việt Nam. Đối với những
người xa xứ lâu ngày kỷ niệm có thể bị phai nhạt nhòa trong ký ức, cho nên chỉ
có tình yêu quê hương tha thiết mới giữ được tình nồng thắm của thuở mới xa
quê. Hoài Việt tuy cách xa quê hương ngàn trùng nhưng lòng vẫn ưu tư về đất mẹ,
nơi đang có chiến tranh và sự phân ly của đất nước.Tình yêu nước luôn mãnh liệt
trong tim nên nhà thơ đã thể hiện những
tình cảm đó qua ý nghĩa con chữ gởi trong thơ:
« Nước Bến Hải ngậm ngùi thương
dân Việt
Ai gây nên ly biệt?
Ai tạo ra oán hờn?
Khiến lòng ta tê tái,
Lệ chảy dài trên má đã gầy khô ?
Cửu Long Bến Hải sông Lô,
Đường về đất nước ở mô rứa Trời ?
(Thương Nhớ Quê Hương)
Lưu trú và học tập xứ người, Hoài Việt đã hấp thụ được văn hóa của
bản xứ, điều đó đã khai mở cho ông có cái nhãn quan rộng lớn, khách quan khi
nhìn và đánh giá một sự việc. Một kiến thức uyên bác để hiểu về giá trị, ý
nghĩa thật sự của cụm từ Nhân Bản và Tự Do.Vốn là thi sĩ có tâm hồn đa cảm nên
đã yêu tha nhân và muốn mọi người có quyền sống bình đẳng. Ông luôn tâm niệm dù
ở bất cứ nơi đâu vẫn xem mình là người Việt :
«Nhưng dù ở đâu
Bọn mình vẫn là da vàng mũi tẹt».
( Anh Trịnh Tường Ơi)
Ông yêu người dân hai miền
Nam Bắc, mặc cho những thế lực chính trị đã chia cắt phân đôi đất nước que
hương ông thành hai mảnh Bắc Nam :
«Dù bà con xa
Cũng chút tình máu mủ,
Và đồng bào Nam Bắc
đều cùng Mẹ Việt Nam.
(Cháu Tôi Dân Hà Nội)
Vào thập niên 60-70 trào lưu phản chiến
bắt nguồn từ nhóm trí thức Phương Tây của phong trào Hiện sinh (Existentialism)
dẫn đầu bởi triết gia Jean Paul Sartre, Simone de Beauvoir, sau đó lan tỏa khắp
nơi được sự hưởng ứng nồng nhiệt của các văn nghệ sĩ nổi tiếng thế giới. Ở Mỹ:
Nữ tài tử Jane Fonda, Cặp vua nhạc
Pop: Pob Dylain, Ca nhạc sĩ đồng quê Joan Baez, Ở Anh ; Nhạc sĩ John
Lennon trong ban Tứ quái Beatles…Những người nghệ sĩ này lợi dụng sự nổi tiếng,
đã tác động làm ảnh hưởng đến cuộc chiến Việt Nam dẫn đến sự sập đổ chính quyền
Miền Nam vào ngày 30 tháng tư năm 1975! Nhưng chỉ ít năm sau cũng những người
này đã thức tỉnh, chính thức lên tiếng
sám hối khi nhìn thấy thảm họa CS gây ra khiến cả triệu người dân Việt Nam bỏ
nước chạy trốn, bị chết trên biển cả! Ngày đó, triết gia Jean Paul Satre và triết
gia Raymond Aron là hai lãnh tụ
trí thức đối kháng nhau về tư tưởng, cách nhìn về chiến
tranh VN. Họ đã ngồi lại với nhau, cùng lên tiếng kêu gọi dân Pháp mở rộng bàn tay
tiếp đón thuyền nhân, nạn nhân của Cộng Sản, đồng
thời vào điện Elysée, yêu cầu tổng thống Giscard
d’Estaing đón nhận những thuyền nhân trên lãnh thổ Pháp. Riêng nhà thơ Hoài Việt không nằm trong nhóm trí thức văn nghệ
sĩ phản chiến này, mặc dù ông không thích chiến tranh, không thích sự bắn giết.
Ông yêu quê hương, yêu dân tộc nên hông muốn người dân Việt đổ máu, do đó ông
không thích chiến tranh, không thích ở đây
không có nghĩa là thiên tả. Nhà thơ luôn đứng về lẽ phải để chống lại bất
công, bạo lực và sự độc quyền:
«Đâu là lẽ sống,
Đâu là tình nhân đạo ?
Đâu Tự do
Đâu nhân vị thanh cao?
Đông Tây Nam Bắc
Tôi chỉ thây máu đào
Máu dân chúng
Máu những người vô tội…»
(Đâu Lẽ Sống)
Ở Paris ngay từ thập niên 60 của thế kỷ trước, Hoài Việt đã dấn thân bằng ngòi
bút, nhà thơ đã trải lòng mình qua những vần điệu, đó là lời cầu nguyện cho quê
hương đất nước sớm thanh bình qua cơn ly loạn.
«Dòng sông Bến Hải buồn ghê
Ai về bên nớ, ai về bên ni !»
(Đôi Bờ Bến Hải)
Tôi quen Hoài Việt trong một cuộc biểu tình có hàng ngàn người tham dự tranh đấu
cho tự do dân chủ quê hương vào năm 1988 ở Paris, tôi ở trong ban tổ chức, còn
anh Hoài Việt là người tham dự, và được mời phát biểu ngay sau đó trong hội trường.
Lúc đó tôi chưa biết Hoài Việt là một nhà thơ, mà chỉ được giới thiệu qua anh
là một nhà khoa học. Hoài Việt phát biểu rất hùng hồn, lên án bạo lực, độc tài
CS và tố giác những nỗi khốn cùng của
người dân trong nước. Anh nói rất hay cả hội trường vỗ tay tán thưởng.Tôi và
Hoài Việt thân nhau từ dạo ấy. Gần gũi anh tôi mới biết anh là nhà thơ đã có
tác phẩm. Tính tình anh bộc trực, nên chẳng quanh co lựa lời để đẹp lòng người
khác. Anh rất sôi nổi về các đề tài liên quan đến thời sự quê hương. Tôi khám
phá trong anh cả một vùng trời quê hương rực sáng. Ngoài những tích cực trong
các sinh hoạt văn hóa và đấu tranh cho tự do dân chủ quê hương. Nhà thơ Hoài Việt
còn tham gia những công tác thiện nguyện gây gũy giúp người vượt biên tị nạn ở
các đảo. Cùng ký chung những thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ các nước tự do
mở rộng vòng tay đón nhận những thuyền nhân tị nạn được định cư mau chóng. Ông
còn sát cánh với nhà văn Từ Nguyên trong trung tâm Văn Bút Âu Châu, và là người
duy nhất làm thơ Tự Do trong hội thơ Ba Lê Thi Xã.
Dù xa cách quê hương vạn dặm nhưng nhà thơ vẫn giữ lề nếp xưa, giọng nói và từ
ngữ vẫn rất Huế. Anh không nặng hình thức nên ăn mặc thật giản dị, thoạt nhìn
anh đã toát ra cái dáng người miền Trung. Anh hòa mình trong đám đông, lại rất
khiêm tốn ít tỏ ra mình là trí thức khoa bảng, anh quả là một chân quê Nho học
thời xưa. Thỉnh thoảng tôi đến thăm anh ở phòng thí nghiệm, phòng riêng làm việc
của anh cũng thật đơn sơ! Chúng tôi chung lý tưởng lại hợp nhau về thơ văn và
cùng nhau tổ chức những sinh hoạt văn hóa ở Paris làm tăng phần màu sắc văn học
nghệ thuật cho cộng đồng. Vào mùa thu năm 1994,
Câu lạc bộ văn Hóa VN Paris tổ chức chiều sinh hoạt văn học nghệ thuật,
nhà thơ Hoài Việt cùng vói các thành viên khác: GSBS Trần Văn Bảng, BS
Nguyễn Bá Hậu, GS Phạm Thị Nhung được mời diễn thuyết về Đề tài: Paris và Mùa
Thu Văn Học, buổi sinh hoạt mang hương thơm văn hóa tỏa khắp nơi. Sinh hoạt văn
hóa Paris ngày đó tưng bừng, những buổi ra mắt sách giới thiệu tác phẩm liên tục,
văn nghệ được mùa kéo dài trong nhiều năm. Chúng tôi bên nhau đón tiếp các anh
chị văn nghệ sĩ khắp nơi ở hải ngoại đến
Paris. Khi trận bão văn bút hải ngoại xảy ra trong giới cầm bút, tôi lui về,
thu mình trong những sinh hoạt của câu lạc bộ Văn Hóa, và vẫn đón tiếp các anh
chị văn nghệ sĩ ơ khắp nơi đến Paris, không phân biệt văn bút thuộc nhóm nào.
Nhưng nhà thơ Hoài Việt lại có một sự chọn lựa cứng rắn hơn, anh chỉ đón những
người thuộc văn bút mà anh nhìn nhận, điều này không làm tình bạn chúng tôi sứt
mẻ. Về sau nhà thơ Hoài Việt, nhà văn Từ Nguyên, nhà văn Mạnh Bích và nhà thơ Hồ
Trọng Khôi chú tâm vào những bộ sách song ngữ DUO, nhà thơ Hoài Việt quan niệm
hãy chuyển ngữ để cho các thế hệ sinh ở Pháp đọc và hiểu được những việc làm của
cha ông.
Trăng có lúc tròn lúc khuyết nhưng uổi đời cứ lặng lẽ trôi làm nhạt dần những ước
mơ của một thời say đắm. Những năm sau này nhà thơ bước vào tuổi hạc nên đã lui
về ở ẩn vui với gia đình nhưng lòng ông
vẫn canh cánh chuyện non nước đầy vơi.
Đỗ Bình
No comments:
Post a Comment