Hoa rụng ven đường
Triều Phong
SAIGON 1965 – Le Loi Avenue – Photo by Bruce Baumler
Hầu hết học trò ngày xưa ở Gia Định, sống
quanh ngã tư Xóm Gà, ga xe lửa Xóm Thôn, ngã ba Cây Quéo, Cây Thị…v.v… không đứa
nào là không biết tới thầy Nguyễn Trung Đạo. Dáng thầy bé, người nho nhã
nhưng trông rất thông minh và đẹp trai. Vợ thầy là cô Tuyết và hai người có hai
đứa con gái nhỏ. Nhà thầy rất lớn, trong một con hẻm to rộng gần chợ Cây Quéo
và đó cũng chính là trung tâm dạy kèm toán hình học, đại số cho học sinh từ lớp
sáu tới lớp chín do hai vợ chồng thầy đảm nhiệm. Thầy có phương pháp dạy rất
hay nên nổi tiếng và có rất đông học trò trong suốt mấy chục năm trời. Gia đình
tôi có vài cô, chú, cũng là học trò lâu năm của thầy!
Tôi ở ngã năm Bình Hòa nên cũng được ba
tôi cho tới đây học thêm. Tại trung tâm, tôi ngồi cạnh Trân nên chẳng bao lâu
hai thằng đã trở nên thân thiết. Không biết gia đình nó thế nào nhưng nó có nhiều
tiền lắm, túi lúc nào cũng rủng rỉnh đầy bạc! Lâu lâu sau giờ tan trường nó rủ
tôi đến đầu chợ Cây Quéo mua mỗi thằng một bịch đá bào có xịt “siro” màu đỏ rồi
vừa đạp xe vừa mút lấy mút để hoặc có hôm hai thằng lại ngồi chò hỏ trên vỉa hè
ăn chè đậu đỏ bánh lọt được bỏ trong ly nước đá đập nhỏ, ngon ơi là ngon. Có những
chiều tan trường, bọn tôi năm bảy đứa, thằng thì đạp xe đạp mini, đứa đi xe kiểu
sáu trăm rưỡi (650) nhưng là loại nhỏ dành cho trẻ con, vừa chạy vừa la rùm trời
đoạn lạng qua lạng lại ghẹo mấy cô bạn gái học cùng lớp khiến mấy cô hoảng sợ
la ơi ới, vui thật là vui. Dễ thương làm sao tuổi thơ thời ấy, nhớ mãi không
quên!
Hình minh hoạ Sài Gòn trước 1975
Một hôm tan trường nó kêu tôi chạy theo
nó đến tiệm bán sách, truyện, ở góc đối diện với chợ để mua bản nhạc “Đám cưới
trên đường quê” là một nhạc phẩm rất thịnh hành do hai ca sĩ Sơn Ca và Bùi Thiện
đang hát lúc bấy giờ để mang về nhà nghêu ngao với cây đàn ghi-ta (guitar) mà
ba nó mới mua cho. Cứ thế mà chúng tôi lớn lên theo năm tháng trong vô tư và…
vô tội
Sau “cơn gió bụi,” ngày 30 Tháng Tư năm
1975 thì tụi tôi tan hàng không còn học chung với nhau nữa!
Năm 1977, khi trường Lasan Taberd của
chúng tôi bị giải thể, tôi chuyển về trường Trần Quốc Tuấn (Lasan Đức Minh cũ) ở
Quận 3 để học tiếp lớp 11. Và chuyện đáng buồn đầy ấn tượng còn lại mãi trong
tôi đến tận ngày nay là hôm đầu tiên đến trường tôi bất ngờ gặp lại Frère Aimé
thân yêu ngày nào bây giờ được “nhà nước cách mạng” giao cho nhiệm vụ giữ cổng;
việc của người “gác dan” (guardian) ít học chứ không phải là việc của một sư
huynh học thức uyên thâm. Một sự sỉ nhục đối với quý sư huynh Công giáo
Dòng Lasan chúng tôi. Nhìn ông già lưng còng, tóc bạc phơ, miệng móm mém, cứ đứng
lên ngồi xuống, đi ra đi vô đóng mở cổng mỗi khi có người tới, tôi thấy tội
nghiệp làm sao! Tuy nhiên, Frère Aimé thì vẫn an nhiên với công việc của mình,
sống thoải mái theo câu “gặp thời thế, thế thời phải thế!” của kẻ
sĩ!
Dạo ấy mỗi buổi sáng đi học tôi hay gặp
một cô gái đạp xe từ hướng chợ Cây Thị chạy ra, nơi yên sau (porte-bagages) có
cột một cái cặp táp (cartable) đen. Cô ta mặc áo sơ mi trắng với quần tây xanh
hay đen, mái tóc dài xõa ngang vai tung bay trong gió, làn da trắng muốt, cặp mắt
to, đen tròn, long lanh dưới đôi mi cong vút, chiếc mũi cao trên cặp môi son đỏ
tự nhiên. Cái miệng nho nhỏ, chúm chím hay mím lại một tí khiến tôi không cưỡng
được lòng mình nên ưa nhìn và cảm thấy thích thú. Cứ thế tôi đạp tà tà theo
sau, mắt thì dán chặt lấy cái lưng ong dễ thương của cô ta cho đến khi cô vô
trường Võ Thị Sáu tức nữ trung học Lê Văn Duyệt cũ rồi thì tôi mới phóng hết
ga, chạy như bay lên dốc cầu Bông mà nghe tâm hồn rộn ràng reo vui sảng khoái.
Nhìn dòng nước đen ngòm chảy lượn lờ dưới chân cầu tôi vẫn thấy đẹp và tưởng
như đang đi trên dòng sông Seine thơ mộng thường thấy trong phim ảnh! Hôm nào
qua khỏi ngã năm Bình Hoà rồi mà chưa thấy cô gái thì tôi cứ chạy rề rề chờ đợi,
lòng buồn vu vơ. Cứ vậy mà tháng ngày dần dà trôi qua dù thời kỳ này đất nước
đang vô cùng khó khăn, đói ăn thiếu mặc nhưng tuổi thanh niên mới lớn của tôi cứ
phơi phới. Tôi sống trong hồn nhiên, để mặc cho thứ tình cảm tự nhiên ấy phát
triển không nghĩ ngợi và cảm thấy yêu đời vô hạn.
Người ta thường nói phụ nữ có một giác
quan đặc biệt đó là giác quan thứ sáu để họ dễ dàng nhận biết các điều đang xảy
ra quanh mình. Điều đó có lẽ đúng vì chỉ sau thời gian ngắn là ý chừng cô ấy đã
biết có tôi luôn theo đuổi phía sau nên nhiều khi đang chạy cô ta chợt liếc về
phía tôi và cười cười khiến tôi luống cuống ngượng ngùng làm sao. Nhiều hôm tôi
chạy theo sau nàng mà miệng thì cứ ngân nga “Em tan trường về, đường
mưa nho nhỏ… ôm nghiêng tập vở tóc dài tà áo vờn bay. Em đi dịu dàng… anh
theo Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê… xưa tan trường về, anh theo Ngọ về…
nay trên đường này đời như sóng nổi… Ôi con đường về… nhớ người thuở xưa, thuở
xưa… Xưa tan trường về, anh theo, theo Ngọ về… xưa theo Ngọ về, mái tóc Ngọ
dài…” Và không biết tự lúc nào tôi đã yêu thích bài “Ngày xưa
Hoàng Thị” đó của Phạm Duy để ngân nga suốt ngày và càng hát tôi càng mến thi
sĩ Phạm Thiên Thư hơn.
Lúc này chính quyền bắt đầu phân chia lại
địa bàn, thành lập phường, quận mới. Phường là đơn vị hạ tầng cơ sở của chính
quyền cộng sản. Mỗi phường có một ủy ban nhân dân lo về hành chính, công an lo
an ninh và phường đội chịu trách nhiệm quản lý thanh niên trong độ tuổi thi
hành nghĩa vụ quân sự. Mỗi phường có nhiều khóm. Khóm lại chia thành nhiều khu
trong đó mỗi khu có vài ba tổ dân phố với các tổ trưởng, tổ phó. Ngày lẫn đêm
những ông bà tổ trưởng, tổ phó rất hăng say “cách mạng” này có nhiệm vụ thông
báo các mệnh lệnh, chính sách từ ủy ban phường xuống người dân. Thời gian ấy
chính quyền địa phương còn cho người đi gắn những cái loa phát thanh trên từng
con đường hay trong các con hẻm để họ phát đi những bản tin, lời kêu gọi cho một
phong trào nào đó vào mỗi buổi sáng hoặc chiều… Đời sống của người dân Saigon
trở nên nhiêu khê, nhiều khó khăn với lối sinh hoạt mới của Đảng cộng sản Việt
Nam vì đôi khi người dân cần sự yên lặng nghỉ ngơi sau một ngày vất vả chạy vạy
kiếm cơm thì loa phóng thanh lại vang vang ngoài đầu ngõ nghe thật đinh tai nhức
óc.
Ngoài ra, phường cũng ra lệnh cho tất cả
thanh niên nam nữ tuổi từ mười lăm trở lên mỗi đêm tập họp nơi nào có khoảng đất
hay sân trống rộng rãi như ủy ban hoặc công an phường vào lúc bảy giờ tối để
sinh hoạt, thực hiện cái gọi là “nếp sống văn hóa mới” tới chín, mười giờ đêm mới
về. Tại đây các cán bộ bắt đầu dạy cho họ ca những bài ca cách mạng như “Đêm
qua em mơ gặp Bác Hồ hay Bác đang cùng chúng cháu hành quân…” Ông Hồ
Chí Minh có lẽ cũng chưa bao giờ được đưa lên cao như thế. Dân chúng Saigon còn
có phần lạ lẫm, bỡ ngỡ khi ông được xưng tụng bằng những ngôn từ mỹ miều như “nhà
lãnh tụ vĩ đại, vị cha già của dân tộc” và tấm hình bán thân của ông với
chòm râu bạc phơ được phóng lớn treo khắp các cơ quan chính quyền.
Trong các buổi sinh hoạt nọ đôi lúc tôi
gặp lại Trân. Một buổi chiều Hè tôi cùng dăm ba thằng bạn trong phường ghé nhà
nó chơi. Bây giờ thì tôi biết ba Trân hồi trước là thầu khoán nên nhà nó là một
cái biệt thự thật to nằm trên đường Ngô Tùng Châu bây giờ gọi là Nguyễn Văn Đậu,
xung quanh có tường xi măng bao bọc cao quá đầu người với hai cánh cửa cổng lớn
và nặng bằng sắt được sơn màu xanh lá cây đậm.
Thường thì tôi chỉ tới gặp nó ngoài cổng,
đây là lần thứ nhất nó dẫn tụi tôi vào trong. Sân nhà nó thì lát xi măng trộn với
sỏi và được kẻ từng ô hình chữ nhật ngang dọc. Gần cổng có trồng một cây huỳnh
mai, giữa sân thì có một hồ cá hình bầu dục, chếch về phía trái của hồ có một
cây mận hồng đào để lấy bóng mát và bên dưới có đặt một ghế đá mài là nơi tụi
tôi tụ tập.
Hôm ấy khi chúng tôi đang ca hát, đùa
vui thì có tiếng chuông vang ngoài cổng. Trân nghểnh cổ lên nhìn rồi vội vàng
chạy ra mở cửa. Bóng một người con gái dắt xe đạp lách qua cửa cổng tiến vào
trong. Tim tôi như ngừng đập khi nhận ra cô gái đó không ai khác hơn là người
con gái tôi vẫn gặp hằng ngày khi đi học. Thằng Dũng ngồi cạnh tôi nhướng mày,
nhanh nhẩu hỏi vọng về hướng cô gái:
– Chị Trúc ơi, đi đâu
về đó?
– Đi…
Cô gái chợt im bặt và vô cùng ngạc nhiên
khi thấy tôi. Lặng yên giây lát chị tiếp tục như để đánh trống lảng:
– Lại nhà nhỏ bạn lấy cuốn
“Giải đề thi tuyển sinh môn Toán” này nè! Vừa nói chị vừa quơ quơ cuốn sách
đang cầm trên tay lên.
– Chị giỏi mà, cần gì phải học
thêm. Trăm phần trăm là đậu đại học năm nay rồi, khỏi thi cũng đậu chị ơi!
Chị Trúc đưa tay vuốt lại mái tóc rối
tung trong gió đoạn vừa đẩy xe đi vừa nói với lại:
– Ừ, không thi thì đậu
mà thi… thì rớt!
Câu nói bông đùa nhiều ý nghĩa của chị
Trúc khiến tôi nghĩ bụng “chà! cô này cũng khôi hài và thâm thúy lắm chứ
chẳng vừa gì đâu nha!”
Trong lúc tôi còn mãi suy nghĩ lan man
thì chị đã dẫn xe vào con hẻm bên hông nhà. Và giờ đây qua thăm dò tôi biết thằng
Trân có hai người anh lớn là anh Triết và anh Trị rồi tới chị Trúc với nó cùng
thằng út tên Trực. Tổng cộng là bốn trai một gái!
Ngôi biệt thự nhà nó chiếm một diện tích
rộng, chỉ cái chuyện muốn vào bên trong người ta phải đi qua cái sân lớn rồi lại
còn băng ngang qua hồ cá cả chục bước nữa mới đến bậc thềm tam cấp thì chắc là
trong nhà nó hẳn phải to và đẹp lắm!
Ít phút sau chị Trúc trở ra nhưng không
đến chỗ chúng tôi mà lại tới ngồi trên bờ hồ lấy tay vẫy nước đùa nghịch với mấy
con cá Tàu và ngắm chúng đang lội tung tăng trong làn nước trong vắt. Lúc này
tôi đang ôm cây guitar trên tay, chơi bài “Feste Lariane” và bỗng dưng chẳng hiểu
vì sao tôi đột nhiên đổi sang “modern” đàn bài “Biết đến thuở nào” của nhạc sĩ
Tùng Giang một cách vô thức, bởi đây là bản nhạc trẻ sôi động, rất thịnh hành
trước 1975.
“Phút đầu gặp em, tinh tú
quay cuồng. Lòng đang giá băng bỗng ngập tràn muôn tia nắng. Nghe bao xót xa….
ngỡ ngàng nhìn em… quyện vương đôi mắt nhung huyền…. mối u hoài trong tâm
tư. Biết thuở nào quên… mộng ước một ngày, thôi đợi chờ, ta có nhau…”
Thằng Dũng hùa theo tôi rống lên đặc giọng
Quảng Nam của nó, thằng Phát thì hát nhỏ hơn tay nhịp nhịp lên đùi của mình,
chúng tôi gào vang cả một góc vườn. Ở đầu kia chị Trúc vẫn thản nhiên, chị
nghiêng người vuốt mấy cọng tóc mây lòa xòa trên cái gò má mịn màng hơi ửng hồng
lên một tí của mình, khe khẽ tủm tỉm cười ý như muốn nói “chị đây biết tỏng
tòng tong” mấy em muốn cái gì đấy nha!
* * *
Thời “trẻ trâu” của tôi chỉ có thế vì
năm 1978 khi Cộng sản Việt Nam xua quân sang Cambodia lật đổ Pol Pot-Iêng Sari
thì bọn tôi “tan đàn xẻ nghé!” Thế hệ chúng tôi bị liệng vào chiến trường Tây
Nam mịt mù khói lửa, ngập tràn thuốc súng này như người ta quăng miếng thịt lên
vỉ nướng vậy.
Lúc bấy giờ do Trung Cộng nhận thấy
chính phủ Việt Nam đang ngả dần theo Nga Sô sau khi đã chiếm được miền Nam vào
năm 1975 và muốn thống trị Đông Dương, áp đặt khu vực này dưới sự ảnh hưởng của
mình nên tức giận mà ủng hộ Pol Pot để đối phó với Hà Nội. Mâu thuẫn ý thức hệ
giữa Leninism với Maoism ấy khiến cộng sản chém giết lẫn nhau để tranh giành
quyền lợi. Trong cảnh huynh đệ tương tàn đó Việt Nam dưới sự hậu thuẫn to lớn của
Liên Xô đã mạnh mẽ đánh Khờ Me Đỏ (Khmer Rouge) với ý định xóa sổ chế độ này
làm hàng vạn thanh niên vừa học xong phổ thông chuẩn bị vào đại học đã phải qua
“chiến trường K” và chết oan uổng. Đất nước vốn đang thiếu nhiều người giỏi do
phần lớn trí thức chế độ VNCH bị lùa vào trại cải tạo giờ lại bị cái gọi là
“làm nghĩa vụ quốc tế nhưng thực chất là một cuộc xâm lược” khiến cho nhân tài
quốc gia như “lá mùa thu!” Nhiều gia đình đã đau khổ vì mất con hay ngậm ngùi
lúc thấy con trở về trong thân hình tàn tạ của một phế nhân!
Hình minh hoạ
Trước tình trạng nghèo đói, thất vọng với
những chính sách vô nhân đạo của chính phủ Việt Nam, dân chúng không còn ai muốn
sống với cộng sản nữa và con đường vượt biên là lối thoát duy nhất lúc bấy giờ.
Đầu tiên, người ta dùng bất cứ ghe thuyền lớn nhỏ nào có được để vượt biển sau
đó thì một số người đi đường bộ trốn sang Miên để tìm cách vào đất Thái Lan xin
tị nạn.
Cả hai đường trốn này đều vô cùng nguy
hiểm, đầy bất trắc rủi ro, cơ hội sống sót rất thấp. Lịch sử tị nạn của thuyền
nhân và bộ hành nhân cho thấy thiên hạ đã bất chấp, đem mạng sống để đổi lấy tự
do bằng bất cứ giá nào! Theo thống kê của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc thì đã
có gần cả triệu người hy sinh trên rừng, dưới biển trước khi đến được bến bờ tự
do.
Thời gian đó ai có điều kiện đều cũng muốn
bỏ đi. Riêng tôi thì do ba tôi không cam tâm để tôi hy sinh một cách phi lý bởi
tham vọng của giới lãnh đạo Hà Nội nên cũng tìm đường cho tôi vượt biển. Nhưng
vượt biên có số, định cư có phần! Tôi đã thất bại nhiều lần, tù tội gần sáu năm
trời mới thoát khỏi cộng sản vào năm 1989 và kẹt lại tại trại tị nạn xấp xỉ gần
mười một năm nữa vì đảo đóng cửa (cut-off date) mới đến được Hoa Kỳ!
Năm 2016, tôi về thăm và lo cho ba tôi
khi ông đau nặng. Trước ngày trở lại Mỹ, tôi muốn tới Ngũ Hành Miếu; nơi có
nghĩa trang gia đình bên phía ba tôi để thắp nhang cho ông bà nội tôi. Ngay từ
sáng sớm tôi đã ra khỏi nhà và đi bộ để ngắm lại phố xá thuở xưa do nghĩa trang
cách nhà tôi cũng không bao xa. Con đường Phan Văn Trị lúc này thay đổi nhiều
quá, nghĩa trang chùa Thập Phước dường như đã biến mất và thay vào đó là nhà cửa
dân chúng mọc lên san sát nhau trông rất lạ.
Đi được một lúc tôi dừng chân lại trước
một tiệm tạp hóa để mua nhang. Lúc đứng chờ nhận tiền thối bất ngờ giọng một
người đàn ông đang ngồi nơi chiếc bàn kê ngoài sân của quán cà phê kế bên vang
lên:
– Mày phải không N.?
Tôi giật mình và quay sáng ngó anh ta
chăm chăm. Nhìn thái độ của tôi, anh ta nghĩ mình đã đoán đúng nên liền vội vã
đứng dậy tiến về phía tôi miệng liến thoắng:
– Tao nè! Mày nhớ tao không?
Dũng nè! Mày đừng nói mày quên tao nghe mậy?
Ngẩng người nhìn anh ta một hồi lâu, dĩ
vãng xa xưa dần trở về. Gương mặt thân quen từ từ hiện rõ qua ký ức, tôi chợt
nhận ra người đàn ông trước mắt mình nên reo lên và bước tới. Hai thằng vồ lấy
nhau, tay bắt mặt mừng:
– A, nhớ rồi. Khỏe không?
Tao tưởng mày về ngoài quê mày rồi chứ!
Dũng lôi tôi sang quán cà phê. Vừa ấn
vai tôi ngồi xuống cái ghế nhỏ cạnh bên, nó vừa hỏi dồn dập làm tôi không kịp
trả lời:
– Về đó “cạp đất” ăn hả mậy?
Mày bây giờ ở nước nào? Tao nghe nói mày đi vượt biên bị tù liên miên, cực khổ
lắm phải không? Về hồi nào vậy? Bao giờ đi? “Đù móa,” lâu dữ hả mậy? Mới đó mà
gần bốn mươi năm rồi, thằng nào bây giờ cũng già hết trơn hết trọi. Nhưng mày
cũng không thay đổi mấy, trông vẫn còn phong độ và trẻ hơn tuổi nhiều!
Đợi nó nói xong, tôi giả lả:
– Thấy vậy chớ không phải vậy
mày ơi, “trong héo ngoài tươi” thôi!
– Ừ, từ cuối năm 1978 đến giờ.
Sau khi xong lớp 12 là tụi mình không gặp lại nhau nữa. Thời gian đi nhanh
không ngờ.
Tôi chép miệng thì thầm tiếp khi thấy
tóc nó bạc phơ!
Cứ thế hai thằng tôi hàn huyên tâm sự rất
lâu, ôn lại chuyện ngày xưa cho đến khi nhắc tới bạn bè thì Dũng mới cho tôi biết
những chuyện thảm khốc về gia đình Trân vì năm 1979 Trân vượt biên bằng đường bộ
qua ngõ Cambodia thì bặt vô âm tín đến hôm nay, chắc có lẽ đã chết! Phần chị
Trúc thì bị thằng cha Vinh (mà tôi đã có dịp nói qua trong truyện “những tháng
ngày bỏ lại!”) bám cứng nên chị với anh Trị trốn xuống miền Tây vượt biển khoảng
giữa năm 1980 nhưng không may ghe gặp hải tặc Thái Lan. Anh Trị bị đập đầu và bị
chúng quăng xuống biển vì chống lại chúng khi thấy em gái mình bị hãm hiếp dã
man. Chị Trúc bị hãm hiếp nhiều lần! Sau này có một chị đi cùng chuyến, định cư
ở Thụy Sĩ về Việt Nam và tìm đến nhà báo tin. Chị kể rằng lúc cướp bóc và hãm
hiếp đàn bà con gái đã đời chúng phá máy tàu và bỏ mặc ghe trôi lênh đênh trên
biển suốt mười mấy ngày cuối cùng ghe họ được tàu dầu Panama vớt (rescue at
sea) đưa vô đảo. Chị nhờ có thai sắp sanh nên thoát nạn!
Hình minh hoạ
Ở trại tị nạn chị ấy sống chung và lo lắng
cho chị Trúc bởi chị Trúc bị khủng hoảng tinh thần, nhiều lúc thẫn thờ hoặc đôi
lúc lại la hét như điên dại khiến chỉ thấy tội nghiệp nên rất thương chị Trúc.
Nhưng hôm chị đi sanh về thì mới hay chị Trúc đã nhảy xuống biển tự tử chết khi
phát giác mình đã mang bầu!
Tôi ngồi cạnh bên nghe Dũng kể mà lòng
tái tê, tim như bị ai bóp đến rướm máu. Đối với tôi những chuyện này tôi đã
nghe, đã đọc và đã thấy rất nhiều từ thời còn sống trong trại tị nạn nhưng
không ngờ thảm cảnh này lại xảy ra với chị Trúc. Đau lòng quá, người con gái
tôi thương!
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi
truân chuyên.”
Tôi buột miệng lẩm nhẩm hai câu thơ của
cụ Đặng Trần Côn và thở dài.
– Còn thằng Trực thì bị kêu
đi nghĩa vụ quân sự. Nó lên đường sang “K” ngay với mong muốn tìm thằng Trân,
anh nó. Ai ngờ… nó đạp phải mìn cụt cả hai chân rồi mậy. Tao không ngờ gia đình
nó lại bất hạnh dữ vậy!
Dũng ngừng lại lắc đầu, im lặng một đỗi.
Không khí như chùng xuống và nặng nề hẳn bởi chuyện đau buồn kia. Gần đến trưa,
theo mong muốn của tôi, nó dắt tôi tới thăm anh Triết và thắp cho gia đình Trân
một nén nhang vì nhà cũ của anh đã bị phường tịch thu mất tiêu rồi.
Hai thằng tôi đi loanh quanh qua mấy con
hẻm. Cuối cùng nó dừng lại trước một ngôi nhà nhỏ, không mấy khá giả, với một số
hũ bánh kẹo được bày biện sẵn ngoài hiên để bán cho con nít. Dũng gọi to:
– Anh Triết ơi!
Ít phút sau có tiếng dép kêu lẹp xẹp rồi
một ông già bước ra. Dũng giới thiệu tôi, người đàn ông mở cửa cho chúng tôi
vào khi nghe nói là người quen cũ. Qua ánh sáng mờ mờ bên trong, tôi thấy Trực
đang ngồi trên cái ghế giữa nhà, hai chân cụt quá đầu gối, tóc tai bù xù, nom rất
thảm hại. Dũng nhắc chuyện xưa, anh Triết có vẻ vui bởi có người còn nhớ đến
gia đình anh nhưng Trực thì chỉ ậm ự không muốn tiếp chuyện khi tôi đến gần hỏi
thăm.
Thấy thế tôi trở lại chiếc bàn nơi có
anh Triết đang đợi. Nhìn người đàn ông trước mặt mình tôi không nghĩ đấy là anh
Triết vì anh chỉ hơn tôi có năm hoặc sáu tuổi gì đó thôi nhưng anh già
quá.
Anh Triết ứa nước mắt, cám ơn tôi có
lòng tới đây và đưa tôi đến cái tủ kê nơi góc nhà. Đứng trước năm khung hình gồm
ba má anh với anh Trị cùng chị Trúc và Trân để trên cao, tôi ngẩn ngơ và buồn
vô hạn khi thấy lại thằng Trân. Đoạn ngó sang tấm ảnh chị Trúc, cả một ký ức
thơ ngây ngày nào ùn ùn kéo về trong tâm tưởng. Tôi bồi hồi đốt nhang, mặt bần
thần, đầu óc nghĩ ngợi miên man.
Qua làn khói trắng mỏng bay lượn lờ lên
cao từ các nén nhang đang cháy, bỗng nhiên tôi cảm thấy khuôn mặt của chị Trúc
như rung rinh, đôi mắt yêu kiều mà ngày xưa một thời từng làm tôi xao xuyến nay
buồn rười rượi với nỗi u uẩn còn vương nơi cuối khóe. Tôi chợt run nhè nhẹ vì
hình như ánh mắt ấy lay động. Môi chị mấp máy như muốn nói với tôi điều gì khiến
người tôi nổi gai ốc. Còn đâu gương mặt thanh tú với mắt phượng mày ngài từng
làm tôi say đắm mấy mươi năm về trước? Còn đâu cái tuổi hoa niên tươi thắm ngày
xưa? Nhìn hình chị hôm nay sao thấy u hoài quá! Phải chăng đó là điểm báo trước
cho một số phận kém may mắn?
Tôi lầm thầm khấn vái cho bạn tôi và chị
hãy yên lòng an nghỉ, nếu còn điều gì vấn vương thì hãy buông bỏ cho sớm siêu
thoát rồi nhanh chân trở lại bên chiếc bàn mà Dũng và anh Triết đang trò chuyện
nho nhỏ với nỗi lòng buồn vô vàn. Nán lại thêm ít phút và không muốn chứng kiến
cảnh thê thảm này lâu hơn nên tôi rút vội hai tờ giấy bạc năm trăm ngàn đồng biếu
anh Triết để lo nhang đèn và kiếu từ ngay.
Hình minh hoạ: Everton
Vila/Unsplash
Chia tay Dũng xong, tôi rẽ vô đường Nguyễn
Thượng Hiền hướng về Ngũ Hành Miếu, lầm lũi bước đi với cõi lòng tan nát. Bên
ngoài lúc ấy chợt có nhiều cơn gió lớn thổi mạnh làm cho vô số hoa sứ từ trong
vườn nhà ai gần đó gần đó rơi rụng, bay lả tả ra ngoài khiến tôi tưởng tượng tới
cuộc đời của chị Trúc cũng như một trong số các bông hoa đó mà không khỏi ngậm
ngùi.
Đời người đôi lúc thịnh hay suy, vinh
quang hoặc tủi nhục là do bị ảnh hưởng bởi các quyết sách của giới lãnh đạo quốc
gia trong từng giai đoạn lịch sử. Thế hệ của chúng tôi vào những năm tháng cuối
của thập niên bảy mươi (1970s) thật là thê thảm do tham vọng vừa ngu vừa dốt của
chính phủ ngày ấy!
Phải chăng đấy có phải là định mệnh của
kiếp hồng nhan bạc phận, nhân sinh vô thường mà cụ Tố Như đã thấy được từ hơn
hai trăm năm trước “bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới
được phần thanh cao” đó không?
Bất chợt tôi lại hát thì thầm bài ca bỏ
dở năm nào “…đi quanh tìm hoài… ai mang bụi đỏ đi rồi !”
Ohio, ngày 04 Tháng Sáu năm 2022
Frère Aime Nguyễn Văn Đức, vị
sư huynh khả kính đã dậy nhạc sĩ Ngọc Chánh lúc ông lên 8 tuổi
No comments:
Post a Comment