Wednesday, October 27, 2021

HỌA SĨ VŨ HỐI TỪ HỘI HỌA ĐẾN THƯ HỌA (ĐỖ BÌNH)

  HỌA SĨ VŨ HỐI TỪ HỘI HỌA ĐẾN THƯ HỌA.

Đỗ  Bình

 

Nhà Biên khảo  Nguyễn Thanh, Nhà văn Nguyễn Thùy, Vũ Hối, Đỗ Bình

thi họa sĩ Vũ Hối: Ông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, do thiên phú Vũ Hối đã biết làm thơ và hoa tay vẽ đẹp ngay từ thuở nhỏ. Là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế, ông được mời vẽ chân dung tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings In Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting). Là nghệ sĩ Á Châu duy nhất được vinh danh về Sáng Tạo Nghệ Thuật cho thế giới, tại Atlanta - Hoa Kỳ ngày 5-11-1994. 
Có Tên Trong: 
- Văn Học Tự Điển thời Việt Nam Cộng Hòa
- Bách Khoa Tự Điển Larousse, bộ tự điển nổi danh nhất của Pháp và thế giới.
Tự Điển Danh Nhân Thế Giới, ấn hành tại Anh Quốc năm 1998 (Dictionary of International Biography 1998 – Cambridge – England).
- Được ghi trong “5000 Personalities of The World”, do American Biographical Institute ấn hành năm 2000. Là nhà Thư Họa Việt Nam duy nhất được ghi tên trong “Tuyển Tập Thư Họa Bậc Thầy Đông Phương”, ấn hành tại Tokyo – Nhật Bản năm 2006 (Volume 6International Editonal – Tokyo – Japan).
 Ngoài danh tài về họa, Vũ Hối còn là một nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, đã xuất bản nhiều thi tập.

Trời phú choVũ Hối một bàn tay tài hoa để vẽ và một trái tim đa cảm để làm thơ. Nhờ năng khiếu bẩm sinh đó đã mở cánh cửa nghệ thuật cho người nghệ sĩ bước vào con đường hội họa để thành danh. Ông vẽ từ tranh Sơn Dầu qua tranh Lụa, từ hiện thực đến siêu thực nên khi chuyển sang Thư Pháp không khó khăn mà còn đầy chất sang tạo. Thư Pháp là nghệ thuật viết chữ đẹp đã  có từ hàng ngàn năm trước đối với văn tự của nhiều nước trên thế giới. Ngày xưa ở Trung Hoa đời Đường có những nhà thư pháp nổi tiếng như Vương Hi Chi, Vương Hi Hiến, Nhan Tài Khanh, Liễu Công Quyền. Ở những nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn Việt Nam Thư Họa là nghệ thuật dùng bút lông mực tàu để viết chữ như vẽ những câu thơ, câu đối, câu ca dao, hay ngạn ngữ, danh  ngôn  bằng chữ Hán, chữ Nôm, thuở xưa nước ta có hững nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến. Kể từ khi có chữ quốc ngữ có vài người như các nhà thơ Đông Hồ, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương cũng đem thư pháp vào chữ Quốc Ngữ trước Vũ Hối. Mặc dù bước vào con đường thư pháp sau nhưng Vũ Hối đã sáng tạo ra lối vẽ riêng để thành trường phái Luân Vũ Họa hay Hội Họa Sinh Động (Paintings In Motion để lột tả hết sắc thái độc đáo của con chữ. Để diễn tả thần khí của thư họa nét vẽ mang sắc thái con chữ có lúc chứa ý chí rực lửa theo lối ‘hỏa tự’, có lúc trầm mặc tĩnh lặng chứa tư tưởng hiền triết theo lối ‘thủy tự’ diễn tả qua nhũng đường nét nghệ thuật viết chữ Việt tạo thành bức tranh rồng bay phượng múa.

Vũ Hối Và Những Sinh Hoạt NghệThuật Bên Trời Âu.
Năm 1997, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm: Chiêm Bao Trở Giấc, xuất bản năm 1997.
Tháng 9 năm 2002, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Mây Ngàn viết chung với thi sĩ Hoài Việt TS Nguyễn Văn Hướng, thi phẩm, khổ lớn, giấy màu, láng, rất đẹp do nhà xuất bản Anh Em ở Nauy in năm 2002. Dịp này họa sĩ Vũ Hối mang tặng tôi bức tranh lụa: Đôi Chim Trên Cành Trúc, màu sắc, phong cảnh thật đẹp.
Trong cuốn tuyển tập đặc biệt:«Vũ Hối Nghệ Thuật Thư Họa», khổ lớn, giấy láng, hình màu rất đẹp do nhà xuất bản EM T.MO S.J Magazine in năm 2007, người viết được thi họa sĩ chọn một tấm hình sinh hoạt ngày ra mắt sách và Thư Họa của Vũ Hối năm 1997 tại Paris, do CLB VH VN Paris tổ chức, để đưa vào tuyển tập cùng với nhiều tấm hình của sinh hoạt khác.  Vào năm 2009 họa sĩ Vũ Hối cùng một số anh chị em văn nghệ sĩ từ Mỹ, Canada, Âu Châu sang Paris sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề : Thu Tao Ngộ. Sau buổi sinh hoạt, đêm đó trở về nhà tôi hai người bạn thời thơ ấu Vũ Hối và  Nguyễn Thùy cùng nhau tâm sự. Sáng hôm sau trong lúc dùng điểm tâm, Vũ Hối nói:
 «Mình với Nguyễn Thùy nói chuyện đến gần sáng.»
Nguyễn Thùy tiếp:
« Hai đứa chỉ nói về số bạn bè tan tác sau 1975.»
  Rồi vừa cười vừa hỏi:
«Nhớ lại chiều qua nơi phòng khánh tiết  một số đông các ông các bà, cả những cô trẻ vây quanh Vũ Hối xin 'thư họa', nhiều bà, nhiều cô xin như thế, Hối có 'thư sướng' không?»  
Vũ Hối cười trả lời:
«Mệt thấy mồ, sướng con mẹ gì' Dĩ nhiên, được mến mộ thì cũng vui lắm. Mà sao Thùy hỏi lạ vậy?» 
Nguyễn Thùy trả lời:
«Tôi bảo có 'thư sướng' không chứ có bảo ông 'sướng' đâu?'. Ông có biết 'thư sướng là từ Hán Việt, theo Tự Điển Nguyễn Văn Khôn là 'khoan khoái, thoải mái, dễ chịu' chứ có phải 'sướng theo nghĩa thông thường đâu».
 Rồi Nguyễn Thùy hỏi tiếp:
« Có người nói 'thư họa là vẽ chữ', có như vậy không?
 Vũ Hối
:
«Thì phần nào cũng có thể nói thế. Còn Thùy nghĩ sao?.»
Nguyễn Thùy trả lời:
«Rất phục Hối vì Hối là người đầu tiên đã đem  chữ viết VN vào Hội họa. Thêm nữa, theo mình' Thư Họa là đem thơ vào họa'. Hối đã thư họa nhiều câu danh ngôn, nhiều câu thơ trong một số tác phẩm nổi tiếng và số thơ của nhiều người. Nhưng mình nhắc Hối chỉ thư họa những câu thơ nào sáng giá, hay đẹp chứ đừng vì cảm tình thư họa những câu thơ không hay đẹp gì khiến nhiều ngườit có thể nghĩ 'Hối đã khiến ngón thư họa của Hối trở nên tầm thường.» 
Nguyễn Thùy quay sang tôi hỏi :
« Anh quan niệm thế nào là hội họa ?»
 Tôi vội xua tay trả lời :
 «Anh phải hỏi anh Vũ Hối chứ sao lại hỏi tôi ?! » 
Nguyễn Thùy tiếp:

«Thấy anh thích tranh lắm sao không có ý kiến ? »

Vì muốn chấm dứt câu chuyện để còn thời gian chuẩn bị cho cuộc du ngoạn, tôi nói:
« Theo tôi hội họa là những cảm xúc mạnh pha chút tưởng tượng của họa sĩ: đã kết hợp màu sắc, ánh sáng, bóng tối thể hiện qua những đường nét đậm nhạt để thành tác phẩm. Nhưng bức vẽ không phải là sự sao chép cho giống với hình mẫu ; mà phải sáng tạo để tác phẩm có nét riêng, nghĩa là phải độc đáo cả nội dung lẫn hình thức.»
Vũ Hối:
«Một quan niệm rất hội họa. »
Hai người cứ mải mê nói chuyện nên tôi thúc dục các anh dung điểm tâm nhanh để các bạn đến đón đi chơi, nhưng Nguyễn Thùy vẫn gân cổ lên nói:
« Mình chẳng biết gì về Hội Họa nhưng lại ưa nói quan điểm của mình về Hội Họa. Theo mình, hội họa là thứ nghệ thuật tĩnh, nó sôi nổi trong trầm mặc, nó động trong bất động, nó càng đón nhận khinh bạc càng trở nên cao trọng, lâu dài. Mình đã viết như thế trong truyện 'Mây Rồng', có tặng Hối, Hối thấy sao? » 
Vũ Hối
đáp:
 «Có đọc. Truyện hay nhưng quan điểm Hội Họa nơi quyển đó, cao kỳ quá, khó ai thực hiện được. Mình chưa đủ khả năng để kết hợp cả hai lối 'công họa và tâm họa' như Thùy nói. Mà chắc cũng khó có người làm nổi. Mình già rồi, sức yếu nữa nên khó lòng nghiên cứu, học hỏi thêm để có thể có được nhiều tác phẩm sáng giá hơn »
Nguyễn Thùy :
 « Nếu có thêm càng tốt. Nhưng với bao tác phẩm đã nổi tiếng, chừng ấy, mình thấy Hối đã đem lại cho Việt Nam một tiếng vang khá lớn cho nền Hôi Họa VN rồi. Mình mừng và vui hơn nữa là Hối là nguời Quãng Nam, đồng hương với mình, xứ Quãng  được thêm một 'nhân tài' về Hội Họa thì cũng hãnh diện lắm chứ »

Tôi đành phải cắt ngang câu chuyện của các anh, và hẹn tối về sẽ để các anh tha hồ nói. Dùng điểm tâm vừa xong thì các bạn cũng vừa đến. Chúng tôi : Nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, nhà văn Nguyễn Thùy, họa sĩ Vũ Hối và tôi cùng đi Giverny thăm viện bảo tàng của danh họa Claude Monet cha đẻ trường phái ấn tượng.
 Con đường từ Cergy đến làng Giverny chạy xuyên qua vùng Vexin français, bình nguyên phía Tây Bắc Paris, vùng đất phì nhiêu phủ màu xanh của đồng cỏ, ruộng lúa mì, cụm rừng... Sông ngòi chảy uốn khúc, xoáy mòn lớp đất vôi tạo nên một địa hình mấp mô gồm đầm lầy, thung lũng và đồi gò nối tiếp nhau. Kỳ vĩ hơn tất cả chính là dòng sông Seine, cửa ngõ thông thương từ Paris ra biển cả. Dòng sông chảy ngoằn ngoèo soi bóng hàng cây dương liểu, sườn dốc cheo leo, những tòa dinh thự lâu đài...Từ xa xưa nơi đây đã in dấu chân từng đoàn quân La Mã. Những phế tích do tàn phá của chiến tranh suốt nhiều thế kỷ, chứng tỏ từ lâu dân cư đã sống gắn bó với mảnh đất và dòng sông.- Do cảnh sắc độc đáo cùng với môi trường sinh vật phong phú, một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập tại vùng này vào năm 1995 (Parc naturel régional du Vexin français). Thỉnh thoảng dọc bên vệ đường hay giữa cánh đồng ta còn gặp những cây thập giá bằng đá vôi chạm trổ, bốn nhánh hình tam giác, người xưa dùng làm cột mốc ranh giới giữa các xứ đạo, các đất đai sở hữu. Ngày nay di sản nông thôn này trở thành biểu tượng cho vùng Vexin français. Làng Giverny nằm dọc theo sườn phía nam dãy đồi, bên cạnh hợp lưu nơi sông Epte đổ vào sông Seine.
Trong lúc anh Nguyễn Thanh mải mê lái xe tìm đường, anh Nguyễn Bảo Hưng vui vẻ cất tiếng:
« Anh Vũ Hối từ Mỹ sang, lại là họa sĩ, hôm nay được bọn mình dẫn đi thăm Giverny là trúng tủ rồi đấy.»
 Tuy không phải là họa sĩ, nhưng thích tìm hiểu về hội họa, đặc biệt là trường phái ấn tượng, anh Nguyễn Bảo Hưng giải thích:
 «Anh phải biết, với người Mỹ, Giverny được coi là cái nôi của hội họa ấn tượng và là chốn hành hương của hầu hết các đoàn du khách Mỹ viếng thăm Pháp.Thực ra Claude Monet không phải là người sáng lập ra trường phái ấn tượng. Sở dĩ tên tuổi ông được gắn liền với hội họa ấn tượng, ấy là nhờ nhà phê bình Loui Leroy, trong một bài báo, đã dùng từ impressionniste để nói lên cảm nhận của mình trước bức họa « Rạng Đông » (Soleil levant,1972) được Claude Monet đem ra trình làng tại cuộc triển lãm do ông cùng một nhóm họa sĩ đứng ra tổ chức riêng vào năm 1974 tại Paris. Thế là từ Impressionnisme được ghi vào sổ bộ đời hội họa từ đấy để nói về Trường phái Ấn Tượng(*). Còn nói rằng Giverny là cái nôi của hội họa ấn tượng cũng không hẳn đúng. Bởi vì tất cả những bức tranh mang đường nét ấn tượng hầu hết đều được các họa sĩ theo trường phái này như Manet, Sisley, Pissarro, Renoir v.v… thực hiện trong các thập niên 1860, 1870 và tại nhiều địa điểm không gian khác nhau.Chỉ từ sau 1883 Monet mới tới trú ngụ tại Giverny thuộc hạt Eure không cách thành phố Rouen bao xa. Nhưng vì ngôi nhà xinh xắn với khu vườn phô bày đủ mọi sắc hoa, và đặc biệt cái đầm hoa súng (l’étang des nénuphars) với cây cầu kiểu nhật (le pont japonais) duyên dáng được dùng làm đề tài cho nhiều bức tranh ngoạn mục đã khiến địa danh này trở thành đối tượng viếng thăm của  khách yêu chuộng hội họa trên toàn thế giới.»

Câu chuyện tới đây thì cũng là lúc anh Nguyễn Thanh bắt đầu lái xe đi vào thành phố Auvers Sur Oise. Lần theo dấu vết xưa qua những phiến đá tường đã phủ màu thời gian, chiều xuống ánh nắng dần phai nhìn con phố cổ bên dòng sông Oise trầm mặc hơn. Nguyễn Thanh bỗng dừng xe trên con đường chính, ngay trước quán trọ Ravoux, trạm dừng chân chót của Van Gogh. Chúng tôi ngẩn ngơ trước ngôi nhà trọ nay đã được chỉnh trang lại bộ mặt trông sáng sủa hơn, nhưng trong lòng không khỏi bồi hồi nghĩ tới tới hai tháng cuối đời của nhà danh họa này trên căn gác xép chạm mái. Còn đang trầm ngâm suy tưởng bỗng nghe tiếng Nguyễn Thanh kêu gọi qua công viên bên cạnh nơi có bức tượng đồng Van Gogh do Zadkine sáng tác. Sau khi  chụp một tấm chung lưu niệm, đứng cạnh tượng Vũ Hối thở dài than :

«Trông Van Gogh khốn khổ quá, như kẻ đi lang thang, bụi đời !»

Nguyễn Thanh mở ống kính ngắm chụp, sau khi bấm máy liền góp ý:
« Van Gogh đã từng thố lộ: "Khi tôi càng xấu xí, già, ác độc và nghèo, tôi càng tìm cách chuộc lại những thất bại ấy bằng cách làm cho màu của tôi rực rỡ, cân đối, tỏa sáng". »

Từ khu nhà ga cũ đến ngôi giáo đường cổ tất cả chúng tôi theo đường lên dốc khá quanh co, tìm đến ngôi nhà thờ nơi bìa làng. Van Gogh đã dừng chân nơi đây và họa bức tranh mặt ngoài hậu cung nhà thờ, diễn tả một kiến trúc không theo phép phối cảnh nhưng bằng những đường cong quẹo. Anh Vũ Hối đi tới đi lui trên dốc đá góc nhà thhờ ngắm từng chi tiết như tìm cách đứng đúng chỗ Van Gogh đặt giá vẽ, rồi mới nâng máy lên thu hết hình ảnh vào ống kính. Từ ngôi nhà thờ theo con đường làng ra khỏi vòm cây phong là cánh đồng mênh mông hiu quạnh, nơi an nghỉ của danh họa Van Gogh và ngôi mộ bên cạnh là người em trai Théodore. Trong hoang vắng, đứng trước hai ngôi mộ quá đơn sơ của họa sĩ nghèo mộ chỉ lấp mà không xây, bia được cuốn bằng thừng ! Đất Trời cũng  cảm động xót xa cho người  họa sĩ tài hoa nên kết những loài hoa cỏ đầy màu sắc rực rỡ thành tấm thảm phủ lên ngôi mộ. Anh Vũ Hối và Nguyễn Thùy lần đầu đến thăm nên xúc động mạnh rướm lệ.  Vũ Hối từ từ thu mình ngồi cạnh mộ Van Gogh, anh im lặng  nhưng chắc hẳn lòng đang thổn thức ? Trên khuôn mặt buồn bã ấy có chút gì thương tiếc và ngưỡng mộ một danh tài hội họa thế giới bạc mệnh nằm trên cánh đồng hoang vu!  Sau khi thăm mộ Van Gogh và người em trai Théodore, chúng tôi đi thẳng ra cánh đồng trước mặt đến nơi đã ghi dấu kỷ niệm họa phẩm "Đồng Lúa Mì và Đàn Quạ". Đứng trước thiên nhiên, mường tượng lại bức tranh, chắc hẳn trong mỗi người chúng tôi đều có cảm nhận riêng về hình ảnh đầy bí ẩn: «Đàn quạ đen bay sà trên đồng lúa chín vàng dưới bầu trời màu xanh sẫm như báo hiệu cơn dông sắp đổ xuống ?» 
Chúng tôi định đi tiếp vào thăm làng  nhưng con đường đến đây chia làm ba ngã, biết chọn ngã nào? Anh Vũ Hối bảo:

" Van Gogh vẽ đường cho chúng ta nhưng không chỉ dẫn rõ ràng, vậy thì đi đâu cũng được".

Nguyễn Thanh bảo đường quẹo tay trái trở về nhà thờ. Anh Bảo Hưng khuyên nên đi thẳng, tất cả chúng tôi theo hướng đó.
Tối hôm đó về nhà, chúng tôi thức khuya nói chuyện. Nguyễn Thùy bảo Vũ Hối:
«Hai họa sĩ đều nổi tiếng nhưng một 'vừa nổi tiếng vừa nổi miếng' (ý nói có tiền, giàu) còn một  thì 'vừa nổi tiếng vừa nổi điên', còn Vũ Hối thì nổi gì?»

Vũ Hối trả lời:
«chẳng nổi gì cả, đời quá nhiều bầm dập chỉ 'nổi chìm' thôi !»

Họa sĩ Vũ Hối là một nghệ sĩ tài hoa nhưng nhìều thăng trầm.  Sự nổi tiếng về hội họa đã làm lu mờ phần nào mặt văn thơ cho dù nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho đời những vần thơ hay nhưng công chúng tìm đến anh qua hội họa.Tôi hỏi Vũ Hối :
« Giữa Thơ và Hội họa nếu phải chọn một anh chọn cái nào ? »

Vũ Hối:
« Mình xin chọn cả hai, nếu tách ra là chết (!)Vì Thư Trung Hữu Họa .»

Trước năm 1975 và đến bây giờ, họa sĩ Vũ Hối luôn luôn chân thành với tình bạn, ở trong hoàn cảnh nào dù  lúc thăng hay trầm con người đó vẫn thế, vẫn không xa cách với bạn. Bản tính hiền hòa đôn hậu và trung nghĩa đã được các bằng hữu rất qúy trọng. Họa sĩ Vũ Hối chọn một lối sống hòa nhã, an lạc, ông mê say văn học nghệ thuật, xem nhẹ vật chất mà chỉ trợng tình tngười. Ngoài những tác phẩm sơn dầu vẽ chân dung các yếu nhân, Vũ Hối còn vẽ những bức tranh sơn dầu khác ở các thể loại phong cảnh, ấn tượng, những tác phẩm đó đều thể hiện tấm lòng tha thiết của ông đối với quê hương, đất nước. Những tác phẩm: Cảnh Làng Quê, Con Trâu, Cầu Tre, Lũy Tre, Phố Cổ, Ven Sông, Quê Hương với dòng sông Thu Bồn, Tình Mẫu Tử …vv dù xa xăm nhưng vẫn ẩn trong tâm khảm. Tác phẩm Chim Bồ Câu đã nói lên sự khát khao tự do, sự yên bình, ước mơ của nhân loại.
 Con đường văn nghệ của Vũ Hối mang hương thơm tình tự dân tộc nơi xứ người. Đã có biết bao người tiếp nối ông đi trên con đườngThư Họa. Điều làm cho ông hãnh diện và sung sướng  là người con trai của ông là họa sĩ Vũ Quốc, một họa sĩ tài hoa chuyên về sơn dầu đã từng làm những cuộc triển lãm thành công. Rồi đây họa sĩ Vũ Quốc theo con đường văn nghệ  của cha, thi họa sĩ Vũ Hối và của bác ruột là cố giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ký gieo những bông hoa đẹp cho đời.
Văn Học Nghệ Thuật quả có một sức cuốn hút lạ lung  hễ ai đã vướng vào nó thì cả đời khó dứt, muốn bỏ nó để đỡ gánh tâm sức nhưng nó lại chẳng phụ mình nên đành phải theo đến cùng! Con đường nghệ thuật mênh mông bất tận,  ý tưởng đa chiều và muôn lối. Chỉ có những kẻ đam mê nghệ thuật một cách say đắm mới đi trọn con đường đến cùng dù là gian nan, trắc trở thiếu thốn… Đó là nghệ sĩ."

 

Đỗ Bình

No comments: